Sàn mới - Bấm vào đây
Kiếm tiền toàn tập, Bấm vào đây
Trên con đường tiến tới tới “giấc
mơ hoang”, Biển Đông luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng,không đơn
thuần là công cụ, mà còn là yếu tố khẳng định giá trị, sức mạnh Trung
Quốc – yếu tố nhận dạng quốc gia.Trung Quốc đặt mục tiêu sở hữu bằng
được các quyền lợi sống còn của Biển Đông, nhằm mở rộng"không gian sinh
tồn", cương vực hoạt động, tạo thêm sức mạnh trong cán cân quyền lực ở
châu Á - Thái Bình Dương và giải quyết các vấn đề liên quan đến nguồn
lực trước sức ép phát triển.
1-Nhìn lại lịch sử
Việc tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc đối
với Việt Nam có lịch sử từ trước khi Việt Nam - Trung Quốc đặt quan hệ
ngoại giao chính thức. Năm 1909, Trung Quốc bắt đầu có tranh chấp quần
đảo Hoàng Sa; năm 1930 tiến đến tranh chấp quần đảo Trường Sa.
Từ thế kỷ XVII, Triều đình phong kiến Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo
đó và cho đến đầu thế kỷ XX, không có bất kỳ nước nào tranh chấp chủ
quyền tại đây. Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas) khiến cho
các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên biển
Đông. Năm 1921, Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập
quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam. Từ đó có sự
tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa.
Năm 1935, lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ coi cả 4
quần đảo trên biển Đông của là của Trung Quốc.
Đến năm 1939, Hoàng Sa và Trường Sa bị biến thành căn cứ hải quân của
Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lợi dụng tình hình thực dân
Pháp rút khỏi Đông Dương và Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm
1956, CHND Trung Hoa cho quân đội ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo
Hoàng Sa; Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo
Trường Sa.
Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai
miền, vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời. Theo vị trí địa lý, các
đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm dưới vĩ tuyến 17, do
đó, các đảo này thuộc chủ quyền và sự quản lý hành chính của Chính quyền
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 13-7-1961, Chính quyền Nam Việt Nam ký
Sắc lệnh số 174-NV, đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc quản hạt hành chính
tỉnh Quảng Nam (thay tỉnh Thừa Thiên). Ngày 13-7-1971, Ngoại trưởng
Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố rằng, từ lâu đời, quần
đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày 15-7-1971, Bộ Ngoại giao
Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra thông cáo tái xác nhận chủ
quyền chính đáng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 6-9-1973,
Tổng trưởng Nội vụ Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Nghị định
số 420/BNV/HCĐP/26 sáp nhập một số đảo của quần đảo Trường Sa vào xã
Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy (Đồng Nai).
Từ năm 1973, Philippines tăng cường sự hiện diện ở khu vực Trường Sa,
cònChính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũngcó những động thái tích
cực trong xác định chủ quyền và khai thác tài nguyên. Trong khi đó,
tháng 1-1973, Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết,
Mỹ rút quân khỏimiền NamViệt Nam để lại một “khoảng trống quyền lực.
Chớp thời cơ, tháng 1-1974, Trung Quốc cho lực lượng ra chiếm đóng và
cắm cờ tại các đảo. Để bảo vệ chủ quyền, Chính quyền Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã có những động thái kiên quyết (yêu cầu Trung Quốc dừng các
hoạt động phi pháp, họp báo phản đối, điều quân nhổ bỏ cờ Trung Quốc
trên các đảo của Việt Nam, cho quân đội chiếm lại các đảo….). Cuộc chiến
Hoàng sa đã diễn ra hết sức quyết liệt, Trung Quốc quyết tâm tận dụng
cơ hội nhằm tạo chỗ đứng vững chắc hơn ở Biển Đông, cuộc chiến này như
mô tả của Tân Hoa Xã (2009), do đích thân Mao Trạch Đông phê chuẩn, còn
Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh trực tiếp chỉ đạo. Huy động lực lượng áp
đảo, kích động tinh thần tử chiến, cuối cùng Trung Quốc đã chiếm nốt
phần còn lại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đặt chân vào bờ cõi của
Việt Nam.
Sau đó một thời gian ngắn (từ tháng 6-1974), Bắc Kinh tiếp tục lấn tới
trong những yêu sách về Biển Đông: Đòi phần lãnh thổ kéo dài trong vòng
20 dặm dọc theo hầu hết toàn bộ bờ biển Việt Nam cho tới bờ biển Xa-oắc
của Malaixia. Tháng 4-1983, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi
cạn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và sát nhập hai quần đảo vào địa
phận Hải Nam (Trung Quốc).
Tháng 3-1988, Trung Quốc có hành động quyết liệt hơn,
gây ra cuộc hải chiến đẫm máugần cụm đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa),
tấn công các đảo Gạc Ma, đá ngầm Cô Lin, Len Đao. Trung Quốc hạ lệnh bắn
thẳng vào những chiến sĩ Việt Nam đang hòa bình xây dựng đảoGạc Ma. Từ
ngày 14 đến ngày 16-3-1988, lực lượng Hải quân Việt Nam anh dũng trụ
bám, quyết bảo vệ lãnh hải, chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Với lực lượng hùng hậu hơn hẳn, ngày 16-3-1988, Trung Quốc cưỡng chiếm
Gạc Ma và chiếm đóng đến tận ngày hôm nay. Việt Nam giữ vững bãi đá ngầm
Cô Lin. Trung Quốc đã bắn cháy, đánh chìm ba tàu của Việt Nam, 64chiến
sĩ hy sinh, 11chiến sĩkhác bị thương, bắt giữ9 chiến sĩ khác (sau đã
trao trả cho Việt Nam).
Ngay trong ngày 14-3-1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố, nêu rõ:
“Sáng ngày 14-3-1988, các tàu chiến của Trung Quốc đang hoạt động trái
phép ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa đã ngang nhiên nổ súng vào hai tàu
vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma
thuộc khu đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã buộc phải nổ súng để tự vệ. Trong
khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ
trang tàu chiến của Trung Quốc”[1].
Thay mặt nhân dân và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Bộ Ngoại giao “kiên quyết lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà
cầm quyền Trung Quốc. Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam một
lần nữa khẳng định chủ quyển của mình đối với quần đảo Trường Sa và quần
đảo Hoàng Sa”[2];
đồng thời yêu cầu “nhà cầm quyền Trung Quốc phải chấm dứt ngay các hành
động khiêu khích quân sự, rút ngay các tàu chiến của họ ra khỏi vùng
biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam”[3].Ngày
15-3-1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm phản đối Trung Quốc,
“nghiêm khắc lên án những hành động sai trái của phía Trung Quốc…”. Các
tờ báo của Việt Nam như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Tuần tin
Thanh niên… đồng loạt lên tiếng. Quốc tế lập tức có phản ứng đối với
việc Trung Quốc đánh chiếm và chiếm đóng trái phép biển đảo của Việt
Nam. Hãng tin Pháp AFP, áo Thụy Điển Xvenxca Đac-blađet, hời báo Ấn Độ,
đài tiếng nói Hoa Kỳ…đều có bài, tin tức về vụ việc.
Tuy nhiên, bất chấp dư luận, Trung Quốc tiếp tục hành động. Tháng
4-1988, khi quân đội Việt Nam đang tiến hành xây dựng trên bãi đá Len
Đao, với ý đồ lặp lại kịch bản Gạc Ma, Trung Quốc đưa bảy tàu chiến và
nhiều xuồng nhỏ bao vây uy hiếp, hòng cưỡng chiếm thêm bãi đá này. Được
chuẩn bị kỹ để đối phó với tình huống, 7 máy bay chiến đấu của Việt Nam
lập tức cất cánh, hỗ trợ các chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng đánh
dấu chủ quyền trên bãi đá. Tàu chiến của Trung Quốc hoảng sợ tản ra và
không dám nổ súng, Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ, kết thúc xây dựng trên
bãi đá Len Đao.
Sau sự kiện 14-3-1988, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần gửi công hàm
phản đối đến Bắc Kinh (Công hàm ngày 17 và 23, 26 tháng 3-1988), đề nghị
Trung Quốc cử đại diện đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất
đồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp
khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa; đề nghị Trung Quốc trong khi chờ
giải quyết tranh chấp, hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng độ
để tình hình không phát triển xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên
Hợp Quốc về tình hình này, tuy nhiên, phía Trung Quốc khước từ thương
lượng, giữ quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi" của mình đối với
quần đảo Trường Sa (Nam Sa).
Nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, Ngày 17- 10 -1988,
Đảng cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 19/NQ-TƯ Về việc bảo vệ khu vực bãi
ngầm trong thềm lục địa phía Nam; ngày 5-7-1989, Thủ tướng chính phủ ra
chỉ thị số 180UT về việc xây dựng cụm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ
thuật thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với
khu vực thềm lục địa khu vực này. Từ năm 1989, Hải quân Việt Nam củng
cố lực lượng, tuần tra, canh gác, xây dựng đánh dấu chủ quyền trên các
đảo, bãi đá Trường sa.
2-Trung Quốc leo thang ở Biển Đông và hệ lụy
Chiếm một số đảo và bãi đá của Việt Nam năm 1988, Trung Quốc chính
thức đặt chân vào Trường sa – điều mà trước đó Trung Quốc luôn nhắm tới
và quyết tâm thực hiện bằng được. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó chưa là đủ với
Trung Quốc,vị trí địa- kinh tế, địa quân sự và địa- chính trị vô cùng
quan trọng của Hoàng Sa, Trường Sa và quá khứ 7 lần bị xâm lăng từ biển
cũng như tham vọng lãnh thổ lãnh hải vốn ăn sâu trong máu thịt Trung Hoa
khiến Trung Quốc không ngừng gia tăng leo thang trên Biển Đông.
Để thực hiện mục tiêu, Trung Quốc sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau
như "vết dầu loang", “tằm thực”, “cắt lát salami”, “bóc cải”…, lấn dần
từng bước theo kiểu “gặm nhấm Biển Đông”, tránh tạo ra các bất ổn phá vỡ
mối quan hệ với ASEAN và tránh thúc đẩy Mỹ quay trở lại khu vực. Cùng
với thời gian, các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng quyết
liệt hơn, nhất là từ thập niên 90 (XX) đến thập kỷ đầu tiên của thế kỷ
XXI – thời kỳ Trung Quốc coi là then chốt, dịp may lịch sử để giải quyết
“cơn khát” lãnh hải. Cùng với sức mạnh tổng hợp tăng lên nhanh chóng
khiến khoảng cách về kinh tế, quân sự, quốc phòng trong tương quan với
Mỹ dần thu hẹp, Trung Quốc ngày càng “tự tin” hơn trong các động thái
leo thang có tính toán ở Biển Đông, chuyển từ “giấu mình chờ thời” sang
cạnh tranh trực diện, lợi dụng mọi cơ hội để thay đổi luật chơi. Từ năm
2009, Trung Quốc khẳng định yêu sách đường lưỡi bò, tăng cường các hoạt
động trấn áp các quốc gia khác, khảo sát địa chấn, khoan tìm dầu khí
trong các khu vực nước sâu ở lãnh hải và thềm lục địa của các quốc gia
láng giềng. Nguy hiểm hơn, Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của
Việt Nam, buộc tàu thăm dò của Philipin phải rút ra khỏi Bãi Cỏ rong
(Reed Bank), công khai mời thầu các lô dầu khí nằm sâu trong vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt
cá ở Biển Đông vào mùa đánh bắt cao điểm, kéo dài lệnh cấm đánh bắt.
Trung Quốc nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt
Nam trong vùng biển gần Trường Sa, dùng tàu ngư chính và tuần duyên
đánh chìm các tàu cá, bắt giữ, đòi tiền chuộc nhiều tầu cá của Việt
Nam, buộc các ngư dân ký vào các biên bản thừa nhận vi phạm chủ quyền
của Trung Quốc… Trung Quốc không lớn tiếng xác định chủ quyền lãnh hải,
lãnh thổ như trước đây mà ra tay trước để tạo nên thực tế không thể đảo
ngược về lãnh thổ, lãnh hải; đồng thời, đẩy mạnh các biện pháp nhằm kiểm
soát thực tế các vùng biển mà Trung Quốc yếu sách chủ quyền theo hướng
chính thức. Bước đi “kịch tính” gần đây nhất là Trung Quốc hạ đặt trái
phép giàn khoanHYSY 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa
của Việt Nam, xây cất đảo nhân tạo, mở rộng phạm vi hoạt động.
Hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc không đơn giản như Trung
Quốc tuyên bố mà nằm trong tính toán, lộ trình chiến lược lâu dài trong
kế hoạch độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc luôn nhất quán trong mục đích
kiểm soát khai thác dầu mỏ, quản lý giao thương hàng hải, tàu thuyền qua
lại và chiếm ưu thế địa chính trị trong khu vực. Việc Trung Quốc hạ đặt
giàn khoan tại khu vực này sẽ là tiền đề để mở rộng hạ đặt giàn khoan ở
các khu vực khác trong phạm vi “đường lưỡi bò”, tiến tới hiện thực hóa
yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông, tạo căn cứ “pháp lý” và “quản lý
thực tế” đối với Hoàng Sa, củng cố lập luận “Hoàng Sa không có tranh
chấp”, phá vỡ nguyên trạng Biển Đông”, tạo đột phá trong việc thăm dò,
khai thác dầu khí tại các vùng biển có tranh chấp.
Bên cạnh đó, “sự kiện giàn khoan HYSY-981” còn mang đậm động cơ chính trị, một mặt,
nhắn nhủ, đe dọa các nước có tranh chấp, vướng mắc với Trung Quốc ở
biển Đông (đặc biệt là Philippinesvà Việt Nam) không ngả sang và thắt
chặt quan hệ với Mỹ; mặt khác, thử phản ứng của Barack Obama, thách thức chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Washington (biểu hiện tập trung qua Thỏa thuậnquân sự ký kết ngày 28-4-2014 với Philippines).
Đưa giàn khoan vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, Trung Quốc đồng thời
thực hiện chiến thuật “giương Đông, kích Tây”. Hạ đặt giàn khoan giá
trị hơn 1 tỷ USD cùng hơn một trăm tàu các loại bảo vệ và hộ tống với
chi phí lên đến gần 1.5 tỷ USD/ngày, tập trung sự chú ý ồn ã của dư luận
vào sự kiện chính, ở đằng sau, Trung Quốc tiến hành một chiến dịch xây
dựng quy mô lớn trên 6 đảo nhân tạo trong vùng quần đảo Trường Sa, mở
rộng diện tích, phát triển các cơ sở hậu cần, đường băng dã chiến. Đến
khi dư luận hiểu ra và thức tỉnh thì Trung Quốc một việc đã rồi, tiếp
tục xúc tiến nốt những việc bên rìa còn lại và hoàn thành mục tiêu
chính.
Hệ lụy những bước leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông là vô cùng to
lớn không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước khác trong khu
vực cũng như hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình
Dương.Sau xung đột ngày 14-3-1988, khu vực hoạt động của tàu thuyền Hải
quân Trung Quốc được mở rộng, thậm chí có thể phủ khắp các đảo đá ngầm
lân cận củaViệt Nam. Tháng 5-1988, tờ Nhật báoQuân đội nhân dân -
tiếng nói chính thức của quân đội Trung Quốc đã có bài viết, trong đó
tuyên bố: "Hiện nay Hải quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ
Trung Quốc, cả chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa
hàng trăm hải lý”. Trung Quốc ngầm tuyên bố lực lượng Hải quân có thực
lực bảo vệ biên giới trên biển và hải đảo, cho dù quần đảo Nam Sa cách
đại lục Trung Quốc tương đối xa.
Các lấn chiếm của Trung Quốc trên biển Đông không những sẽ hạn chế khả
năng, triển vọng kinh tế của Việt Nam, mà còn làm cho Việt Nam rất dễ bị
sức ép của Trung Quốc về phương diện quân sự. Xây dựng các đảo nhân
tạo và căn cứ quân sự ở Trường Sa (Gạc Ma và Chữ Thập), Trung Quốc nhằm
kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) và Tam Sa (Hoàng Sa) mà
tính theo đường chim bay căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế Vũng Áng
hơn 350km (nơi có hơn 7.000 công nhân Trung Quốc làm việc); đồng thời
chiếu đến dự án Đèo Hải Vân tạo ra một gọng kìm chiến lược khống chế và
chia cắt 2 miền Bắc, hình thành một tam giác quân sự cả từ hướng biển và
đất liền hết sức nguy hiểm.
Nhìn chung, Trung Quốc đang tiến tới áp đặt một vùng chiến lược độc
quyền, kiểm soát khu vực, đặt toàn bộ vùng biển Đông và tất cả các đảo ở
đó dưới tầm mắt của mình, mở rộng tuyến phòng thủ chiến lược tới cực
Nam biển Đông, lách lưỡi dao vào bên sườn Việt Nam, khống chế Việt Nam
từ hướng biển.
3- Chính sách “xoay trục” của Mỹ và tác động đối với Việt Nam
Sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc đang đe dọa đến hòa bình, ổn định
của khu vực,thế giới, đe dọa trực tiếp đến an ninh các đồng minh của Mỹ
và tự do hàng hải cũng như việc sử dụng hợp pháp các vùng biển và vùng
trời ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mặc dù, Mỹkhông có yêu sách chủ quyền ở
Biển Đông nhưng có lợi ích trong tự do hàng hải và sử dụng hợp pháp
vùng biển, vùng trời ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ quan niệm rằng, tự
do hàng hải và sử dụng hợp pháp vùng biển, vùng trời không phải là thứ
mà quốc gia này có thể ban phát hoặc không ban phát cho quốc gia khác và
nỗ lực đơn phương nhằm làm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực cũng như
vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là thách thức
trực tiếp đối với uy tín của Mỹ với tư cách là chiếc neo an ninh hoặc vị
thế người đảm bảo an ninh khu vực. Vì thế, hiện Mỹ đã quyết định tái
cân bằng lực lượng toàn cầu theo hướng ưu tiên khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương, sử dụng tranh chấp Biển Đông như một công cụ để ngăn chặn sự
trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc.
Trong thời gian tới, thay vì cân bằng tỉ lệ lực lượng hải quân 50-50
giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương như hiện nay, Mỹ sẽ điều chuyển
tới khu vực Thái Bình Dương 60% năng lực hải quân của mình. Mỹ đang tích
cực củng cố quan hệ với các đồng minh trong khu vực, chuyển từ chính
sách trung lập” sang “điều phối và can dự” trong các vấn đề liên quan
đến Biển Đông. Mỹ đã lần lượt thông qua Nghị quyết 412 (7-2014), Nghị
quyết H.Res-714 (12-2014) về Biển Đông và Biển Hoa Đông, trong đó có nêu
đích danh vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HYSY 981 - đó
làsự ủng hộ mạnh mẽ đối với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Trung
Quốc xâm lấn trên biển.
Bên cạnh đó, một số nước lớn khác cũng quan tâm đến việc giải quyết vấn
đề Biển Đông, điều này tạo ra một tập hợp lực lượng mới khiến Trung
Quốc e ngại và không thể không quan tâm và suy tính để điều chỉnh hành
động, thái độ cho thích hợp. Cần nói thêm rằng, can dự vào Châu Á - Thái
Bình Dương, Đông và Đông Nam Á, Mỹ và các nước lớn khác không hình
thành nên thế kiểm soát các vùng biển bằng biện pháp quân sự. Trong bối
cảnh các siêu cường không quan niệm tăng ngân sách quốc phòng là tối ưu
và tính toán kiểm soát Biển Đông, kiềm chế Trung Quốc sao cho“ít tốn
kém” nhất; đồng thời vẫn đảm bảo ổn định của khu vực, Mỹ nhắm tới mục
tiêu quản lý các vụ việc bằng pháp luật, thúc đẩy quá trình đấu tranh
hoặc thực thi pháp lý giữa các nước liên quan đến tranh chấp. Nhìn
chung, Mỹ ủng hộ việc sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và luôn nhấn
mạnh các yêu sách trên biển cần xuất phát từ các thực thể trên đất liền
theo UNCLOS.
Sự can dự ngày càng tăng của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông ở một chừng
mực nhất định phù hợp với lợi ích chiến lược của Việt Nam trong đối phó
với Trung Quốc. Là một nước nhỏ, tiềm lực hạn chế hơn Trung Quốc về mọi
mặt, Việt Nam có lợi ích trong việc quốc tế hóa giải quyết các tranh
chấp, lôi kéo càng nhiều càng tốt sự chú ý quốc tế đối với những leo
thang của Trung Quốc trên Biển Đông. Vị trí địa – chính trị, địa – quân
sự của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và khu vực khiến cho vai
trò, vị thế của Việt Nam được nâng lên trong các tính toán chiến lược
của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á.Sự quan tâm lớn hơn
của Mỹ đối với Việt Nam cũng như sự phát triển ấn tượng của quan hệ Việt
– Mỹ thời gian qua chính là kết quả những chuyển biến trong chính sách
của Mỹ đối với Trung Quốc và khu vực.
Bên cạnh đó, sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ, việc Mỹ gia tăng
can dự vào tranh chấp Biển Đông cũng mang lại cho Việt Nam một số rủi
ro nhất định. Với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và là
một bên tham gia tranh chấp Biển Đông, Việt Nam buộc phải xem xét lại
chính sách đối ngoại cân bằng quan hệ và chính sách ngoại giao “ba
không” trong điều kiện ràng buộc ý thức hệ vẫn còn đang khá chặt chẽ và
những ân oán quá khứ chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Ngoài ra, Trung Quốc
chắc chắn sẽ không ngồi yên khi Mỹ tìm cách củng cố quan hệ với các nước
nhắm vào việc bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với đặc điểm núi biển liền
nhau như môi với răng, có mối quan hệ không thể chia cắt về địa dư, khi
muốn răn đe,gây sức ép, Trung Quốc không thiếu lý do và điều kiện thực
hiện: Chống phá Việt Nam từ bên trong, bao vây Việt Nam từ nhiều hướng
(từ Trung Quốc, từ Lào, từ Campuchia...).Rất có thể Việt Nam sẽ rơi vào
thế kẹt giữa hai nước lớn và bị luôn cuốn vào một hình thái chiến tranh
không mong muốn, bị vạ lây bởi sự đối đầu giữa hai cường quốc. Tóm lại,
sự can dự của Mỹ và các nước lớn mang lại cho Việt Nam những thuận lợi
lẫn thách thức mới trong việc xử lý tranh chấp Biển Đông cũng như giải
quyết quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và khu vực. Tuy
nhiên, phải khẳng định rằng, thuận lợi lớn hơn thách thức.
4- Một vài khuyến nghị
Từ khi CHND Trung Hoa ra đời (1949), đã có ba lần Trung Quốc ra quân
lớn đánh Việt Nam: Chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974), tấn công toàn tuyến
biên giới phía Bắc (1979) và Trường Sa 1988. Nhìn lại
lịch sử những lần Trung Quốc tấn công, xâm lược hoặc gây hấn đối với
Việt Nam (và không loại trừ đối với cả những quốc gia khác), có thể nhận
thấy rằng, Trung Quốc thường hành động khi ít nhất hội tụ đủ những yếu
tố sau đây:
Thứ nhất, chọn khiquốc gia - đối tượng trong tình thế
có những khó khăn bên trong, gặp rắc rối hoặc có vị thế yếu trên
trường quốc tế, “trong không ấm, ngoài không êm”. Do đó, quốc gia bị
Trung Quốc “nhòm ngó” khó có thể chống đỡ, đáp trả hoặc nếu có những
quyết định đương đầu mạnh mẽ, dứt khoát, thì tác dụng, hiệu quả cũng bị
hạn chế đáng kể - trong điều kiện đó, Trung Quốc đã kịp thời và nhanh
chóng chớp lấy thời cơ thực hiện mục tiêu định sẵn.
Thứ hai,các phản ứng và dư luận quốc tế trước hành động của
Trung Quốc chỉ có thể ở mức thấp nhất hoặc xuất hiện khoảng trống quyền
lực trong khu vực. Trung Quốc đã phân hóa được quốc gia - đối tượng với
các nước khác, trung lập hóa những nước lớn hoặc khối nước - đó là lúc
tương quan lực lượng thay đổi theo hướng có lợi nhất cho Trung Quốc,
khiến Trung Quốc có thể hành động mà chịu ít rủi ro, thiệt hại nhất song
vẫn có thể đạt mục tiêu đã định và đạt ở mức cao nhất.
Thứ ba, Trung Quốc đang gặp những bất ổn nội bộ (về phát triển
kinh tế, về mâu thuẫn quyền lực, về giải quyết vấn đề xã hội…). Trong
tình hình đó, lãnh đạo Trung Quốc muốn hướng sự chú ý trong nước ra bên
ngoài, đánh lạc hướng dư luận hoặc khơi dậy tinh thần dân tộc, sử dụng
nó như một chất kết dính xã hội, như một phương thức xoa dịu, giải quyết
một cách hình thực những vấn đề nội tại.
Như vậy, nhìn vào những yếu tố nêu trên cộng với phân tích yếu tố mở
nước truyền thống, tham vọng mở rộng ảnh hưởng, mở rộng địa bàn hoạt
động, mở rộng cương vực sinh tồn, lãnh thổ, đất đai vốn là một nét đặc
trưng có tính xuyên suốt, nhất quán của Trung Quốc từ lịch sử tới hiện
tại, có thể kết luận rằng, chiến lược “lấn dần”, “chèn ép”, tranh đoạt
đất đai, sông biển của láng giềng, nhất là của các nước láng giềng nhỏ
và yếu hơn là bất biến. Đặc biệt, khi tuyên bố về “giấc mộng Trung Hoa”,
Tập Cận Bình cũng đồng thời kêu gọi xây dựng một quốc gia hùng mạnh
với một quân đội hùng mạnh khiến người ta không khỏi không hình dung về
sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô vanh nước lớn.
Tồn tại bên cạnh một láng giềng khổng lồ, có sức
mạnh thống trị trong lịch sử thực sự là một áp lực cho Việt Nam. Đối với
Việt Nam, Trung Quốc là một thực tế, là một câu chuyện "không bao giờ
kết thúc".Có tham vọng lãnh thổ, lãnh hải, song trong tình hình hiện
nay, Trung Quốc cố gắng tránh những cuộc chiến tranh hay xung đột “hao
người, tốn của” có thể lôi kéo sự tham dự của nhiều nước, nhất là những
nước đối thủ mạnh của Trung Quốc. Để nuốt dần đất đai, sông biển Việt
Nam, Trung Quốc tích cực sử dụng “quyền lực mềm” bào mòn sức mạnh bên
trong và bên ngoài giống như hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt Nam rối
loạn, chia rẽ và yếu dần. Trong khi luôn cảnh giác với những khả năng
gây va chạm, xung đột vũ trang, Việt Nam còn cần phải cẩn trọng gấp
nhiều lần trước sự phụ thuộc quá sâu về kinh tế vào Trung Quốc, trước
việc Trung Quốc trúng thầu tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… củacác
dự án kinh tế Việt Nam trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan
mật thiết tới tài nguyên quốc gia và an ninh năng lượng (90% các công trình trúng thầu, tạicác địa bàn xung yếu về quốc phòng – an ninh như Quảng Ninh, Vũng Áng, Cửa Việt,Tây Nguyên…),trước việcngười
lao động Trung Quốc sang Việt Nam lập làng, thâm nhập sâu, thậm chí lấy
vợ, sinh con, đồng hóa dân tộc… Trong tương quan giữa Việt Nam và Trung
Quốc với các chỉ số so sánh quá cách biệt, mà sức nặng nghiêng về phía
Trung Quốc, nếu cú đấm đằng trước đã là hết sức khó khăn để chống đỡ,
thì cú đánh đằng sau lưng hoặc thọc ngang mạng sườn còn khủng khiếp hơn
nhiều.
Hoạt động của Trung Quốc thời gian qua cho thấy áp lực dân số và “ước
mơ Trung Hoa” – “ước mơ” trỗi dậy một cách nhanh chóng, trở thành siêu
cường có khả năng chi phối thế giới đang thúc đẩy Trung Quốc thực hiện
chiến lược lấn át láng giềng, chiếm trọn Biển Đông. Nhìn tổng quá, đối
với Việt Nam, Trung Quốc đang sử dụng “chiến lược hai gọng kìm”- khống
chế Việt Nam cả từ trên bộ, cả từ hướng biển.
Trong điều kiện bất ổn ở Biển Đông không ngừng leo thang dưới bàn tay
đạo diễn của Trung Quốc, Việt Nam đang phải đối diện với những thách
thức to lớn,đầy nguy cơ kể từ sau khi kết thúc chiến tranh (1975). Một
lần nữa, dân tộc Việt Nam lại phải đối diện với ý đồ xâm lăng rõ rệt,
trắng trợn của Trung Quốc trong một cuộc chiến không cân sức trong tình
thế khá đơn độc. Việt Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép
không chỉ trên những thách thức kinh tế (khi nền kinh tế bị lệ thuộc quá
nhiều và quá sâu vào Trung Quốc), mà còn ở vị thế tại khu vực (khi
Trung Quốc thò bàn tay vào công việc các nước láng giềng của Việt Nam,
vào quan hệ Việt Nam với láng giềng) và trong những đe dọa chủ quyền,
lãnh thổ, lãnh hải. Đây là một giai đoạn lịch sử hết sức nhạy cảm, nếu
Việt Nam không có chiến lược, đối sách phù hợp, rất có thể sẽ để lại
những tác động bất lợi đối với tiền đồ dân tộc.
Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, bảo vệ từng tấc đất thấm máu
cha ông, thấm máu những anh hùng liệt sĩ, Việt Nam quyết không lùi bước,
lùi bước, đớn hèn là có tội với tiền nhân, có tội với lịch sử.Để có thể
vượt qua khúc quanh của lịch sử, việc giải quyết tốt hai mặt đối nội,
đối ngoại là yêu cầu sống còn nhằm quy tụ tối đa sức mạnh nội lực, quốc
tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp cần và đủ để Trung Quốc hiểu rằng không thể
dễ dàng hành xử theo lối bất chấp và tự viết nên luật lệ của mình.
Về đối nội, cần ra sức xây dựng, củng cố đồng thuận xã hội,không ngừng xây dựng thực lực đất nước. Lợi ích quốc gia dân tộc được đảm bảo ở mức độ nào, tùythuộc
vào đất nước mạnh hay yếu; thành công hay hạn chế trong quan hệ giữa
các quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thực lực mỗi nước. Thực lực của một
quốc gia tất nhiên phải được hiểu là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và
công nghệ, địa vị, ảnh hưởng quốc tế…. Câu chuyện đầu tiên, trước mắt
cấp thiết cần phải làm ngay là thực hiện đoàn kết
dân tộc một cách chân thành ở cả trong và ngoài nước không phân biệt
chính kiến, ý thức hệ, địa vị, thành phần, giai cấp… - Đó là yếu tố cốt
lõi làm nên sức mạnh cất cánh của đất nước. Sự gắn kết bền chặt giữa
người Việt với người Việt tạo ra sức mạnh bất khả chiến bại - sức mạnh
của tinh thần dân tộc, ý chí dân tộc. Đây cũng là cơ hội để hòa
hợp, hòa giải dân tộc, khép lại quá khứ, gạt bỏ hận thù, thành kiến, xóa
đi vết sẹo chiến tranh 40 năm nay chưa kịp lên da non. Không có lý gì
khi hai cựu thù Việt – Mỹ đã có thể ngồi cùng bàn đối thoại mà đồng bào
“máu đỏ, da vàng” cùng chung một đất nước lại không thể nối vòng tay lớn
để cùng chấn hưng quốc gia? Cũng muốn nói thêm rằng, điều đó phụ thuộc
một phần không nhỏ vào chính sách hòa giải dân tộc của Đảng và Nhà nước
Việt Nam.
Về đối ngoại, Việt Nam phải thay đổi căn bản tư duy về quan hệ quốc tế,
xem lại chính sách đối ngoại “ba không”. Chính sách “xoay trục” của Mỹ
và sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới đối với vấn đề Biển Đông
đang tạo ra những thuận lợi nhất định cho Việt Nam. Việt Nam nhất định
phải nắm lấy cơ hội, chuyển hóa tranh chấp của mình với Trung
Quốc theo chiều hướng có lợi nhất, hóa giải các tác động tiêu cực.Việt
Nam cần có cách tiếp cận mới trong việc thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ mọi
mặt, kể cả quan hệ quân sự với Mỹ để đối phó với sự đe dọa từ
phương Bắc. Cần bước qua những mắc mớ quá khứ và gạt bỏ cơn ám ảnh “diễn
biến hòa bình” để nhìn thấy ở Mỹ một đối tác có chung lợi ích cùng ngăn
cản một Trung Quốc đang trong“cơn khát” đất, khát lãnh hải và mê sảng
quyền lực. Không chỉ có vậy, Việt Nam cũng cần có tư duy mới về bạn – thù,
cần nhận thức rõ rằng, nền tảng của mọi mối quan hệ quốc tế đương đại
là lợi ích, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn,vì thế, Việt Nam cần nhìn nhận
chính xác các mục tiêu, hoạt động của các nước Nga, Ấn Độ, Nhật Bản,
Nga, Mỹ trong khu vực và trong giải quyết vấn đề Biển Đông, không để tư
duy bạn – thù cứng nhắc, nỗi lo sợ “diễn biến hòa bình” cản trở những
quyết định tỉnh táo.
Việt Nam cần chủ động tạo nên cục diện các nước lớncó lợi ích kinh tế
và an ninh ngày càng gia tăng, quấn bện trong quan hệ với Việt Nam,gắn
lợi ích, gắn các chính sách của Việt Nam vào các hoạt động kinh tế và
chính trị của mạng lưới khu vực rộng lớn. Việc việc đan xen lợi ích và
chính sách như thế, một cuộc tấn công Việt Nam cũng sẽ bị coi như sự xâm
phạm lợi ích của các nước khác. Ứng phó với Trung Quốc là cả một nghệ
thuật, trong cương có nhu, trong nhu có cương, uyển chuyển giữa đối đầu -
đối thoại và không loại trừ chính sách liên minh, tuyệt đối
không đồng nghĩa liên minh với bè phái, với mất tự chủ hoặc mất độc lập;
đồng thời, ghi nhớ rằng, liên minh không phải để tạo ra một tập hợp lực
lượng chống Trung Quốc, mà để tự bảo vệ mình, ngăn ngừa Trung Quốc một
cách chính đáng và hiệu quả.
Một cách tổng quát, một Việt Nam lớn mạnh, dân chủ, phát triển, coi
tham nhũng và thiếu nhân quyền là kẻ thù, có sự ủng hộ, hậu thuẫn to lớn
của quốc tế chắc chắn sẽ trở thành một pháo đài vững chắc kháng cự mọi
thách thức, chép ép, đe dọa từ Trung Quốc.
Sàn mới - Bấm vào đây
0 nhận xét Blogger 0 Facebook
Post a Comment