Từ hải chiến Hoàng Sa (1974), Trường Sa (1988) đến căng thẳng ở Biển Đông hiện nay - Đôi điều về chiến lược biển của Trung Quốc và ứng phó của việt nam - Edu dị truyện



Sàn mới - Bấm vào đây
Kiếm tiền toàn tập, Bấm vào đây

Nhìn từ lịch sử tới hiện tại, một điều dễ nhận thấy rằng, Trung Quốc luôn theo đuổi một chính sách nhất quán: Trỗi dậy, vươn lên trở thành một nước có địa vị thống trị thế giới. 


Trên con đường tiến tới tới “giấc mơ hoang”, Biển Đông luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng,không đơn thuần là công cụ, mà còn là yếu tố khẳng định giá trị, sức mạnh Trung Quốc – yếu tố nhận dạng quốc gia.Trung Quốc đặt mục tiêu sở hữu bằng được các quyền lợi sống còn của Biển Đông, nhằm mở rộng"không gian sinh tồn", cương vực hoạt động, tạo thêm sức mạnh trong cán cân quyền lực ở châu Á - Thái Bình Dương và giải quyết các vấn đề liên quan đến nguồn lực trước sức ép phát triển.


1-Nhìn lại lịch sử
Việc tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Trung Quốc đối với Việt Nam có lịch sử từ trước khi Việt Nam - Trung Quốc đặt quan hệ ngoại giao chính thức. Năm 1909, Trung Quốc bắt đầu có tranh chấp quần đảo Hoàng Sa; năm 1930 tiến đến tranh chấp quần đảo Trường Sa.
Từ thế kỷ XVII, Triều đình phong kiến Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo đó và cho đến đầu thế kỷ XX, không có bất kỳ nước nào tranh chấp chủ quyền tại đây. Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm Đông Sa (Pratas) khiến cho các nhà cầm quyền miền Nam Trung Quốc quan tâm đến các đảo trên biển Đông. Năm 1921, Chính quyền miền Nam Trung Quốc ra quyết định sát nhập quần đảo Hoàng Sa (mà họ gọi là Tây Sa) vào đảo Hải Nam. Từ đó có sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Pháp về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Năm 1935, lần đầu tiên Trung Quốc chính thức công bố một bản đồ coi cả 4 quần đảo trên biển Đông của là của Trung Quốc.

Đến năm 1939, Hoàng Sa và Trường Sa bị biến thành căn cứ hải quân của Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Lợi dụng tình hình thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương và Việt Nam chưa tiếp quản hai quần đảo, năm 1956, CHND Trung Hoa cho quân đội ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa; Đài Loan cho quân đội ra chiếm đảo Ba Bình trên quần đảo Trường Sa.
Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời. Theo vị trí địa lý, các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm dưới vĩ tuyến 17, do đó, các đảo này thuộc chủ quyền và sự quản lý hành chính của Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 13-7-1961, Chính quyền Nam Việt Nam ký Sắc lệnh số 174-NV, đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc quản hạt hành chính tỉnh Quảng Nam (thay tỉnh Thừa Thiên). Ngày 13-7-1971, Ngoại trưởng Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố rằng, từ lâu đời, quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày 15-7-1971, Bộ Ngoại giao Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra thông cáo tái xác nhận chủ quyền chính đáng trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 6-9-1973, Tổng trưởng Nội vụ Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Nghị định số 420/BNV/HCĐP/26 sáp nhập một số đảo của quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy (Đồng Nai).
Từ năm 1973, Philippines tăng cường sự hiện diện ở khu vực Trường Sa, cònChính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũngcó những động thái tích cực trong xác định chủ quyền và khai thác tài nguyên. Trong khi đó, tháng 1-1973, Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ rút quân khỏimiền NamViệt Nam để lại một “khoảng trống quyền lực. Chớp thời cơ, tháng 1-1974, Trung Quốc cho lực lượng ra chiếm đóng và cắm cờ tại các đảo. Để bảo vệ chủ quyền, Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có những động thái kiên quyết (yêu cầu Trung Quốc dừng các hoạt động phi pháp, họp báo phản đối, điều quân nhổ bỏ cờ Trung Quốc trên các đảo của Việt Nam, cho quân đội chiếm lại các đảo….). Cuộc chiến Hoàng sa đã diễn ra hết sức quyết liệt, Trung Quốc quyết tâm tận dụng cơ hội nhằm tạo chỗ đứng vững chắc hơn ở Biển Đông, cuộc chiến này như mô tả của Tân Hoa Xã (2009), do đích thân Mao Trạch Đông phê chuẩn, còn Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh trực tiếp chỉ đạo. Huy động lực lượng áp đảo, kích động tinh thần tử chiến, cuối cùng Trung Quốc đã chiếm nốt phần còn lại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đặt chân vào bờ cõi của Việt Nam.
Sau đó một thời gian ngắn (từ tháng 6-1974), Bắc Kinh tiếp tục lấn tới trong những yêu sách về Biển Đông: Đòi phần lãnh thổ kéo dài trong vòng 20 dặm dọc theo hầu hết toàn bộ bờ biển Việt Nam cho tới bờ biển Xa-oắc của Malaixia.  Tháng 4-1983, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và sát nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam (Trung Quốc).
Tháng 3-1988, Trung Quốc có hành động quyết liệt hơn, gây ra cuộc hải chiến đẫm máugần cụm đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa), tấn công các đảo Gạc Ma, đá ngầm Cô Lin, Len Đao. Trung Quốc hạ lệnh bắn thẳng vào những chiến sĩ Việt Nam đang hòa bình xây dựng đảoGạc Ma. Từ ngày 14 đến ngày 16-3-1988, lực lượng Hải quân Việt Nam anh dũng trụ bám, quyết bảo vệ lãnh hải, chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Với lực lượng hùng hậu hơn hẳn, ngày 16-3-1988, Trung Quốc cưỡng chiếm Gạc Ma và chiếm đóng đến tận ngày hôm nay. Việt Nam giữ vững bãi đá ngầm Cô Lin. Trung Quốc đã bắn cháy, đánh chìm ba tàu của Việt Nam, 64chiến sĩ hy sinh, 11chiến sĩkhác bị thương, bắt giữ9 chiến sĩ khác (sau đã trao trả cho Việt Nam).
Ngay trong ngày 14-3-1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố, nêu rõ: “Sáng ngày 14-3-1988, các tàu chiến của Trung Quốc đang hoạt động trái phép ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa đã ngang nhiên nổ súng vào hai tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc khu đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã buộc phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu chiến của Trung Quốc”[1]. Thay mặt nhân dân và Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Ngoại giao “kiên quyết lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc. Chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ quyển của mình đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa”[2]; đồng thời yêu cầu “nhà cầm quyền Trung Quốc phải chấm dứt ngay các hành động khiêu khích quân sự, rút ngay các tàu chiến của họ ra khỏi vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam”[3].Ngày 15-3-1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm phản đối Trung Quốc, “nghiêm khắc lên án những hành động sai trái của phía Trung Quốc…”. Các tờ báo của Việt Nam như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Tuần tin Thanh niên… đồng loạt lên tiếng. Quốc tế lập tức có phản ứng đối với việc Trung Quốc đánh chiếm và chiếm đóng trái phép biển đảo của Việt Nam. Hãng tin Pháp AFP, áo Thụy Điển Xvenxca Đac-blađet, hời báo Ấn Độ, đài tiếng nói Hoa Kỳ…đều có bài, tin tức về vụ việc.
Tuy nhiên, bất chấp dư luận, Trung Quốc tiếp tục hành động. Tháng 4-1988, khi quân đội Việt Nam đang tiến hành xây dựng trên bãi đá Len Đao, với ý đồ lặp lại kịch bản Gạc Ma, Trung Quốc đưa bảy tàu chiến và nhiều xuồng nhỏ bao vây uy hiếp, hòng cưỡng chiếm thêm bãi đá này. Được chuẩn bị kỹ để đối phó với tình huống, 7 máy bay chiến đấu của Việt Nam lập tức cất cánh, hỗ trợ các chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ xây dựng đánh dấu chủ quyền trên bãi đá. Tàu chiến của Trung Quốc hoảng sợ tản ra và không dám nổ súng, Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ, kết thúc xây dựng trên  bãi đá Len Đao.
Sau sự kiện 14-3-1988, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh (Công hàm ngày 17 và 23, 26 tháng 3-1988), đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa; đề nghị Trung Quốc trong khi chờ giải quyết tranh chấp, hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng độ để tình hình không phát triển xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp Quốc về tình hình này, tuy nhiên, phía Trung Quốc khước từ thương lượng, giữ quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi" của mình đối với quần đảo Trường Sa (Nam Sa).
Nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, Ngày 17- 10 -1988, Đảng cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 19/NQ-TƯ Về việc bảo vệ khu vực bãi ngầm trong thềm lục địa phía Nam; ngày 5-7-1989, Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 180UT về việc xây dựng cụm dịch vụ kinh tế - khoa học - kỹ thuật thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa khu vực này. Từ năm 1989, Hải quân Việt Nam củng cố lực lượng, tuần tra, canh gác, xây dựng đánh dấu chủ quyền trên các đảo, bãi đá Trường sa.
2-Trung Quốc leo thang ở Biển Đông và hệ lụy
Chiếm một số đảo và bãi đá của Việt Nam năm 1988, Trung Quốc  chính thức đặt chân vào Trường sa – điều mà trước đó Trung Quốc luôn nhắm tới và quyết tâm thực hiện bằng được. Tuy nhiên, bấy nhiêu đó chưa là đủ với Trung Quốc,vị trí địa- kinh tế, địa quân sự và địa- chính trị vô cùng quan trọng của Hoàng Sa, Trường Sa và quá khứ 7 lần bị xâm lăng từ biển cũng như tham vọng lãnh thổ lãnh hải vốn ăn sâu trong máu thịt Trung Hoa khiến Trung Quốc không ngừng gia tăng leo thang trên Biển Đông.
Để thực hiện mục tiêu, Trung Quốc sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau như "vết dầu loang", “tằm thực”, “cắt lát salami”, “bóc cải”…, lấn dần từng bước theo kiểu “gặm nhấm Biển Đông”, tránh tạo ra các bất ổn phá vỡ mối quan hệ với ASEAN và tránh thúc đẩy Mỹ quay trở lại khu vực. Cùng với thời gian, các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng quyết liệt hơn, nhất là từ thập niên 90 (XX) đến thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI – thời kỳ Trung Quốc coi là then chốt, dịp may lịch sử để giải quyết “cơn khát” lãnh hải. Cùng với sức mạnh tổng hợp tăng lên nhanh chóng khiến khoảng cách về kinh tế, quân sự, quốc phòng trong tương quan với Mỹ dần thu hẹp, Trung Quốc ngày càng “tự tin” hơn trong các động thái leo thang có tính toán ở Biển Đông, chuyển từ “giấu mình chờ thời” sang cạnh tranh trực diện, lợi dụng mọi cơ hội để thay đổi luật chơi. Từ năm 2009, Trung Quốc khẳng định yêu sách đường lưỡi bò, tăng cường các hoạt động trấn áp các quốc gia khác, khảo sát địa chấn, khoan tìm dầu khí trong các khu vực nước sâu ở lãnh hải và thềm lục địa của các quốc gia láng giềng. Nguy hiểm hơn, Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, buộc tàu thăm dò của Philipin phải rút ra khỏi Bãi Cỏ rong (Reed Bank), công khai mời thầu các lô dầu khí nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông vào mùa đánh bắt cao điểm, kéo dài lệnh cấm đánh bắt. Trung Quốc nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, dùng  tàu ngư chính và tuần duyên đánh chìm các tàu cá, bắt giữ, đòi tiền chuộc nhiều tầu cá của Việt Nam, buộc các ngư dân ký vào các biên bản thừa nhận vi phạm chủ quyền của Trung Quốc… Trung Quốc không lớn tiếng xác định chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ như trước đây mà ra tay trước để tạo nên thực tế không thể đảo ngược về lãnh thổ, lãnh hải; đồng thời, đẩy mạnh các biện pháp nhằm kiểm soát thực tế các vùng biển mà Trung Quốc yếu sách chủ quyền theo hướng chính thức. Bước đi “kịch tính” gần đây nhất là Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoanHYSY 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa của Việt Nam, xây cất đảo nhân tạo, mở rộng phạm vi hoạt động.
Hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc không đơn giản như Trung Quốc tuyên bố mà nằm trong tính toán, lộ trình chiến lược lâu dài trong kế hoạch độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc luôn nhất quán trong mục đích kiểm soát khai thác dầu mỏ, quản lý giao thương hàng hải, tàu thuyền qua lại và chiếm ưu thế địa chính trị trong khu vực. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại khu vực này sẽ là tiền đề để mở rộng hạ đặt giàn khoan ở các khu vực khác trong phạm vi “đường lưỡi bò”, tiến tới hiện thực hóa yêu sách chủ quyền đối với Biển Đông, tạo căn cứ “pháp lý” và “quản lý thực tế” đối với Hoàng Sa, củng cố lập luận “Hoàng Sa không có tranh chấp”, phá vỡ nguyên trạng Biển Đông”, tạo đột phá trong việc thăm dò, khai thác dầu khí tại các vùng biển có tranh chấp.
Bên cạnh đó, “sự kiện giàn khoan HYSY-981” còn mang đậm động cơ chính trị, một mặt, nhắn nhủ, đe dọa các nước có tranh chấp, vướng mắc với Trung Quốc ở biển Đông (đặc biệt là Philippinesvà Việt Nam) không ngả sang và thắt chặt quan hệ với Mỹ; mặt khác, thử phản ứng của Barack Obama, thách thức chiến lược “xoay trục” sang châu Á của Washington (biểu hiện tập trung qua Thỏa thuậnquân sự ký kết ngày 28-4-2014 với Philippines).
Đưa giàn khoan vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, Trung Quốc đồng thời thực hiện chiến thuật “giương Đông, kích Tây”. Hạ đặt giàn khoan giá trị hơn 1 tỷ USD cùng hơn một trăm tàu các loại bảo vệ và hộ tống với chi phí lên đến gần 1.5 tỷ USD/ngày, tập trung sự chú ý ồn ã của dư luận vào sự kiện chính, ở đằng sau, Trung Quốc tiến hành một chiến dịch xây dựng quy mô lớn trên 6 đảo nhân tạo trong vùng quần đảo Trường Sa, mở rộng diện tích, phát triển các cơ sở hậu cần, đường băng dã chiến. Đến khi dư luận hiểu ra và thức tỉnh thì Trung Quốc một việc đã rồi, tiếp tục xúc tiến nốt những việc bên rìa còn lại và hoàn thành mục tiêu chính.
Hệ lụy những bước leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông là vô cùng to lớn không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước khác trong khu vực cũng như hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương.Sau xung đột ngày 14-3-1988, khu vực hoạt động của tàu thuyền Hải quân Trung Quốc được mở rộng, thậm chí có thể phủ khắp các đảo đá ngầm lân cận củaViệt Nam. Tháng 5-1988, tờ Nhật báoQuân đội nhân dân - tiếng nói chính thức của quân đội Trung Quốc đã có bài viết, trong đó tuyên bố: "Hiện nay Hải quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý”. Trung Quốc ngầm tuyên bố lực lượng Hải quân có thực lực bảo vệ biên giới trên biển và hải đảo, cho dù quần đảo Nam Sa cách đại lục Trung Quốc tương đối xa.
Các lấn chiếm của Trung Quốc trên biển Đông không những sẽ hạn chế khả năng, triển vọng kinh tế của Việt Nam, mà còn làm cho Việt Nam rất dễ bị sức ép của Trung Quốc về phương diện quân sự. Xây dựng các đảo nhân tạo và căn cứ quân sự ở Trường Sa (Gạc Ma và Chữ Thập), Trung Quốc nhằm kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm (Hải Nam) và Tam Sa (Hoàng Sa) mà tính theo đường chim bay căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km (nơi có hơn 7.000 công nhân Trung Quốc làm việc); đồng thời chiếu đến dự án Đèo Hải Vân tạo ra một gọng kìm chiến lược khống chế và chia cắt 2 miền Bắc, hình thành một tam giác quân sự cả từ hướng biển và đất liền hết sức nguy hiểm.
Nhìn chung, Trung Quốc đang tiến tới áp đặt một vùng chiến lược độc quyền, kiểm soát khu vực, đặt toàn bộ vùng biển Đông và tất cả các đảo ở đó dưới tầm mắt của mình, mở rộng tuyến phòng thủ chiến lược tới cực Nam biển Đông, lách lưỡi dao vào bên sườn Việt Nam, khống chế Việt Nam từ hướng biển.
3- Chính sách “xoay trục” của Mỹ và tác động đối với Việt Nam
Sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc đang đe dọa đến hòa bình, ổn định của khu vực,thế giới, đe dọa trực tiếp đến an ninh các đồng minh của Mỹ và tự do hàng hải cũng như việc sử dụng hợp pháp các vùng biển và vùng trời ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mặc dù, Mỹkhông có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông nhưng có lợi ích trong tự do hàng hải và sử dụng hợp pháp vùng biển, vùng trời ở Châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ quan niệm rằng, tự do hàng hải và sử dụng hợp pháp vùng biển, vùng trời không phải là thứ mà quốc gia này có thể ban phát hoặc không ban phát cho quốc gia khác và nỗ lực đơn phương nhằm làm thay đổi nguyên trạng bằng vũ lực cũng như vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) là thách thức trực tiếp đối với uy tín của Mỹ với tư cách là chiếc neo an ninh hoặc vị thế người đảm bảo an ninh khu vực. Vì thế, hiện Mỹ đã quyết định tái cân bằng lực lượng toàn cầu theo hướng ưu tiên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, sử dụng tranh chấp Biển Đông như một công cụ để ngăn chặn sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc.
Trong thời gian tới, thay vì cân bằng tỉ lệ lực lượng hải quân 50-50 giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương như hiện nay, Mỹ sẽ điều chuyển tới khu vực Thái Bình Dương 60% năng lực hải quân của mình. Mỹ đang tích cực củng cố quan hệ với các đồng minh trong khu vực, chuyển từ chính sách trung lập” sang “điều phối và can dự” trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông. Mỹ đã lần lượt thông qua Nghị quyết 412 (7-2014), Nghị quyết H.Res-714 (12-2014) về Biển Đông và Biển Hoa Đông, trong đó có nêu đích danh vụ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HYSY 981 - đó làsự ủng hộ mạnh mẽ đối với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lấn trên biển.
Bên cạnh đó, một số nước lớn khác cũng quan tâm đến việc giải quyết vấn đề Biển Đông, điều này tạo ra một tập hợp lực lượng mới khiến Trung Quốc e ngại và không thể không quan tâm và suy tính để điều chỉnh hành động, thái độ cho thích hợp. Cần nói thêm rằng, can dự vào Châu Á - Thái Bình Dương, Đông và Đông Nam Á, Mỹ và các nước lớn khác không hình thành nên thế kiểm soát các vùng biển bằng biện pháp quân sự. Trong bối cảnh các siêu cường không quan niệm tăng ngân sách quốc phòng là tối ưu và tính toán kiểm soát Biển Đông, kiềm chế Trung Quốc sao cho“ít tốn kém” nhất; đồng thời vẫn đảm bảo ổn định của khu vực, Mỹ  nhắm tới mục tiêu quản lý các vụ việc bằng pháp luật, thúc đẩy quá trình đấu tranh hoặc thực thi pháp lý giữa các nước liên quan đến tranh chấp. Nhìn chung, Mỹ ủng hộ việc sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và luôn nhấn mạnh các yêu sách trên biển cần xuất phát từ các thực thể trên đất liền theo UNCLOS.
Sự can dự ngày càng tăng của Mỹ vào tranh chấp Biển Đông ở một chừng mực nhất định phù hợp với lợi ích chiến lược của Việt Nam trong đối phó với Trung Quốc. Là một nước nhỏ, tiềm lực hạn chế hơn Trung Quốc về mọi mặt, Việt Nam có lợi ích trong việc quốc tế hóa giải quyết các tranh chấp, lôi kéo càng nhiều càng tốt sự chú ý quốc tế đối với những leo thang của Trung Quốc trên Biển Đông. Vị trí địa – chính trị, địa – quân sự của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và khu vực khiến cho vai trò, vị thế của Việt Nam được nâng lên trong các tính toán chiến lược của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á.Sự quan tâm lớn hơn của Mỹ đối với Việt Nam cũng như sự phát triển ấn tượng của quan hệ Việt – Mỹ thời gian qua chính là kết quả những chuyển biến trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và khu vực.
Bên cạnh đó, sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ, việc Mỹ gia tăng can dự vào tranh chấp Biển Đông cũng mang lại cho Việt Nam một số rủi ro nhất định. Với tư cách là một nước láng giềng của Trung Quốc và là một bên tham gia tranh chấp Biển Đông, Việt Nam buộc phải xem xét lại chính sách đối ngoại cân bằng quan hệ và chính sách ngoại giao “ba không” trong điều kiện ràng buộc ý thức hệ vẫn còn đang khá chặt chẽ và những ân oán quá khứ chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Ngoài ra, Trung Quốc chắc chắn sẽ không ngồi yên khi Mỹ tìm cách củng cố quan hệ với các nước nhắm vào việc bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với đặc điểm núi biển liền nhau như môi với răng, có mối quan hệ không thể chia cắt về địa dư, khi muốn răn đe,gây sức ép, Trung Quốc không thiếu lý do và điều kiện thực hiện: Chống phá Việt Nam từ bên trong, bao vây Việt Nam từ nhiều hướng (từ Trung Quốc, từ Lào, từ Campuchia...).Rất có thể Việt Nam sẽ rơi vào thế kẹt giữa hai nước lớn và bị luôn cuốn vào một hình thái chiến tranh không mong muốn, bị vạ lây bởi sự đối đầu giữa hai cường quốc. Tóm lại, sự can dự của Mỹ và các nước lớn mang lại cho Việt Nam những thuận lợi lẫn thách thức mới trong việc xử lý tranh chấp Biển Đông cũng như giải quyết quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và khu vực. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, thuận lợi lớn hơn thách thức.
4- Một vài khuyến nghị
Từ khi CHND Trung Hoa ra đời (1949), đã có ba lần Trung Quốc ra quân lớn đánh Việt Nam: Chiếm quần đảo Hoàng Sa (1974), tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc (1979) và Trường Sa 1988. Nhìn lại lịch sử những lần Trung Quốc tấn công, xâm lược hoặc gây hấn đối với Việt Nam (và không loại trừ đối với cả những quốc gia khác), có thể nhận thấy rằng, Trung Quốc thường hành động khi ít nhất hội tụ đủ những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, chọn khiquốc gia - đối tượng trong tình thế có những khó khăn bên trong,  gặp rắc rối hoặc có vị thế yếu trên trường quốc tế, “trong không ấm, ngoài không êm”. Do đó, quốc gia bị Trung Quốc “nhòm ngó” khó có thể chống đỡ, đáp trả hoặc nếu có những quyết định đương đầu mạnh mẽ, dứt khoát, thì tác dụng, hiệu quả cũng bị hạn chế đáng kể - trong điều kiện đó, Trung Quốc đã kịp thời và nhanh chóng chớp lấy thời cơ thực hiện mục tiêu định sẵn.
Thứ hai,các phản ứng và dư luận quốc tế trước hành động của Trung Quốc chỉ có thể ở mức thấp nhất hoặc xuất hiện khoảng trống quyền lực trong khu vực. Trung Quốc đã phân hóa được quốc gia - đối tượng với các nước khác, trung lập hóa những nước lớn hoặc khối nước - đó là lúc tương quan lực lượng thay đổi theo hướng có lợi nhất cho Trung Quốc, khiến Trung Quốc có thể hành động mà chịu ít rủi ro, thiệt hại nhất song vẫn có thể đạt mục tiêu đã định và đạt ở mức cao nhất.
Thứ ba, Trung Quốc đang gặp những bất ổn nội bộ (về phát triển kinh tế, về mâu thuẫn quyền lực, về giải quyết vấn đề xã hội…). Trong tình hình đó,  lãnh đạo Trung Quốc muốn hướng sự chú ý trong nước ra bên ngoài, đánh lạc hướng dư luận hoặc khơi dậy tinh thần dân tộc, sử dụng nó như một chất kết dính xã hội, như một phương thức xoa dịu, giải quyết một cách hình thực những vấn đề nội tại.
Như vậy, nhìn vào những yếu tố nêu trên cộng với phân tích yếu tố mở nước truyền thống, tham vọng mở rộng ảnh hưởng, mở rộng địa bàn hoạt động, mở rộng cương vực sinh tồn, lãnh thổ, đất đai vốn là một nét đặc trưng có tính xuyên suốt, nhất quán của Trung Quốc từ lịch sử tới hiện tại, có thể kết luận rằng, chiến lược “lấn dần”, “chèn ép”, tranh đoạt đất đai, sông biển của láng giềng, nhất là của các nước láng giềng nhỏ và yếu hơn là bất biến. Đặc biệt, khi tuyên bố về “giấc mộng Trung Hoa”, Tập Cận Bình cũng đồng thời kêu gọi xây dựng một quốc gia hùng mạnh với một quân đội hùng mạnh khiến người ta không khỏi không hình dung về sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, sô vanh nước lớn.
Tồn tại bên cạnh một láng giềng khổng lồ, có sức mạnh thống trị trong lịch sử thực sự là một áp lực cho Việt Nam. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một thực tế, là một câu chuyện "không bao giờ kết thúc".Có tham vọng lãnh thổ, lãnh hải, song trong tình hình hiện nay, Trung Quốc cố gắng tránh những cuộc chiến tranh hay xung đột “hao người, tốn của” có thể lôi kéo sự tham dự của nhiều nước, nhất là những nước đối thủ mạnh của Trung Quốc. Để nuốt dần đất đai, sông biển Việt Nam, Trung Quốc tích cực sử dụng “quyền lực mềm” bào mòn sức mạnh bên trong và bên ngoài giống như hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt Nam rối loạn, chia rẽ và yếu dần. Trong khi luôn cảnh giác với những khả năng gây va chạm, xung đột vũ trang, Việt Nam còn cần phải cẩn trọng gấp nhiều lần trước sự phụ thuộc quá sâu về kinh tế vào Trung Quốc, trước việc Trung Quốc trúng thầu tới 90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… củacác dự án kinh tế Việt Nam trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia và an ninh năng lượng (90% các công trình trúng thầu, tạicác địa bàn xung yếu về quốc phòng – an ninh  như Quảng Ninh, Vũng Áng, Cửa Việt,Tây Nguyên…),trước việcngười lao động Trung Quốc sang Việt Nam lập làng, thâm nhập sâu, thậm chí lấy vợ, sinh con, đồng hóa dân tộc… Trong tương quan giữa Việt Nam và Trung Quốc với các chỉ số so sánh quá cách biệt, mà sức nặng nghiêng về phía Trung Quốc, nếu cú đấm đằng trước đã là hết sức khó khăn để chống đỡ, thì cú đánh đằng sau lưng hoặc thọc ngang mạng sườn còn khủng khiếp hơn nhiều.
Hoạt động của Trung Quốc thời gian qua cho thấy áp lực dân số và “ước mơ Trung Hoa” – “ước mơ” trỗi dậy một cách nhanh chóng, trở thành siêu cường có khả năng chi phối thế giới đang thúc đẩy Trung Quốc thực hiện chiến lược lấn át láng giềng, chiếm trọn Biển Đông. Nhìn tổng quá, đối với Việt Nam, Trung Quốc đang sử dụng “chiến lược hai gọng kìm”- khống chế Việt Nam cả từ trên bộ, cả từ hướng biển.
Trong điều kiện bất ổn ở Biển Đông không ngừng leo thang dưới bàn tay đạo diễn của Trung Quốc, Việt Nam đang phải đối diện với những thách thức to lớn,đầy nguy cơ kể từ sau khi kết thúc chiến tranh (1975). Một lần nữa, dân tộc Việt Nam lại phải đối diện với ý đồ xâm lăng rõ rệt, trắng trợn của Trung Quốc trong một cuộc chiến không cân sức trong tình thế khá đơn độc. Việt Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép không chỉ trên những thách thức kinh tế (khi nền kinh tế bị lệ thuộc quá nhiều và quá sâu vào Trung Quốc), mà còn ở vị thế tại khu vực (khi Trung Quốc thò bàn tay vào công việc các nước láng giềng của Việt Nam, vào quan hệ Việt Nam với láng giềng) và trong những đe dọa chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải. Đây là một giai đoạn lịch sử hết sức nhạy cảm, nếu Việt Nam không có chiến lược, đối sách phù hợp, rất có thể sẽ để lại những tác động bất lợi đối với tiền đồ dân tộc.
Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, bảo vệ từng tấc đất thấm máu cha ông, thấm máu những anh hùng liệt sĩ, Việt Nam quyết không lùi bước, lùi bước, đớn hèn là có tội với tiền nhân, có tội với lịch sử.Để có thể vượt qua khúc quanh của lịch sử, việc giải quyết tốt hai mặt đối nội, đối ngoại là yêu cầu sống còn nhằm quy tụ tối đa sức mạnh nội lực, quốc tế, tạo ra sức mạnh tổng hợp cần và đủ để Trung Quốc hiểu rằng không thể dễ dàng hành xử theo lối bất chấp và tự viết nên luật lệ của mình.
Về đối nội, cần ra sức xây dựng, củng cố đồng thuận xã hội,không ngừng xây dựng thực lực đất nước. Lợi ích quốc gia dân tộc được đảm bảo ở mức độ nào, tùythuộc vào đất nước mạnh hay yếu; thành công hay hạn chế trong quan hệ giữa các quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào thực lực mỗi nước. Thực lực của một quốc gia tất nhiên phải được hiểu là sức mạnh tổng hợp cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật và công nghệ, địa vị, ảnh hưởng quốc tế…. Câu chuyện đầu tiên, trước mắt cấp thiết cần phải làm ngay là thực hiện đoàn kết dân tộc một cách chân thành ở cả trong và ngoài nước không phân biệt chính kiến, ý thức hệ, địa vị, thành phần, giai cấp… - Đó là yếu tố cốt lõi làm nên sức mạnh cất cánh của đất nước. Sự gắn kết bền chặt giữa người Việt với người Việt tạo ra sức mạnh bất khả chiến bại - sức mạnh của tinh thần dân tộc, ý chí dân tộc. Đây cũng là cơ hội để hòa hợp, hòa giải dân tộc, khép lại quá khứ, gạt bỏ hận thù, thành kiến, xóa đi vết sẹo chiến tranh 40 năm nay chưa kịp lên da non. Không có lý gì khi hai cựu thù Việt – Mỹ đã có thể ngồi cùng bàn đối thoại mà đồng bào “máu đỏ, da vàng” cùng chung một đất nước lại không thể nối vòng tay lớn để cùng chấn hưng quốc gia? Cũng muốn nói thêm rằng, điều đó phụ thuộc một phần không nhỏ vào chính sách hòa giải dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Về đối ngoại, Việt Nam phải thay đổi căn bản tư duy về quan hệ quốc tế, xem lại chính sách đối ngoại “ba không”. Chính sách “xoay trục” của Mỹ và sự quan tâm của nhiều nước trên thế giới đối với vấn đề Biển Đông đang tạo ra những thuận lợi nhất định cho Việt Nam. Việt Nam nhất định phải nắm lấy cơ hội, chuyển hóa tranh chấp của mình với Trung Quốc theo chiều hướng có lợi nhất, hóa giải các tác động tiêu cực.Việt Nam cần có cách tiếp cận mới trong việc thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ mọi mặt, kể cả quan hệ quân sự với Mỹ để đối phó với sự đe dọa từ phương Bắc. Cần bước qua những mắc mớ quá khứ và gạt bỏ cơn ám ảnh “diễn biến hòa bình” để nhìn thấy ở Mỹ một đối tác có chung lợi ích cùng ngăn cản một Trung Quốc đang trong“cơn khát” đất, khát lãnh hải và mê sảng quyền lực. Không chỉ có vậy, Việt Nam cũng cần có tư duy mới về bạn – thù, cần nhận thức rõ rằng, nền tảng của mọi mối quan hệ quốc tế đương đại là lợi ích, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn,vì thế, Việt Nam cần nhìn nhận chính xác các mục tiêu, hoạt động của các nước Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga, Mỹ trong khu vực và trong giải quyết vấn đề Biển Đông, không để tư duy bạn – thù cứng nhắc, nỗi lo sợ “diễn biến hòa bình” cản trở những quyết định tỉnh táo.
Việt Nam cần chủ động tạo nên cục diện các nước lớncó lợi ích kinh tế và an ninh ngày càng gia tăng, quấn bện trong quan hệ với Việt Nam,gắn lợi ích, gắn các chính sách của Việt Nam vào các hoạt động kinh tế và chính trị của mạng lưới khu vực rộng lớn. Việc việc đan xen lợi ích và chính sách như thế, một cuộc tấn công Việt Nam cũng sẽ bị coi như sự xâm phạm lợi ích của các nước khác. Ứng phó với Trung Quốc là cả một nghệ thuật, trong cương có nhu, trong nhu có cương, uyển chuyển giữa đối đầu - đối thoại và không loại trừ chính sách liên minh, tuyệt đối không đồng nghĩa liên minh với bè phái, với mất tự chủ hoặc mất độc lập; đồng thời, ghi nhớ rằng, liên minh không phải để tạo ra một tập hợp lực lượng chống Trung Quốc, mà để tự bảo vệ mình, ngăn ngừa Trung Quốc một cách chính đáng và hiệu quả.
Một cách tổng quát, một Việt Nam lớn mạnh, dân chủ, phát triển, coi tham nhũng và thiếu nhân quyền là kẻ thù, có sự ủng hộ, hậu thuẫn to lớn của quốc tế chắc chắn sẽ trở thành một pháo đài vững chắc kháng cự mọi thách thức, chép ép, đe dọa từ Trung Quốc.
 

[1]Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Báo Nhân dân, 15-3-1988.
[2]Như trên.
[3]Như trên. 


Sàn mới - Bấm vào đây

0 nhận xét Blogger 0 Facebook

Post a Comment

loading...


 
Edu dị truyện ©Email: eduditruyen@gmail.com. All Rights Reserved. Powered by >How to best
Link:Bantintuvan|tailieusupham|khoahocsupham|SKKN hay|Soidiemchontruong|dayvahoctot|diemthivao10hoctrenmobile|tradiemthituyensinh|Travel - Du lịch
Top