>
Trúc côn ra sức đập vào,
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh...
Cảm hứng chiêm ngưỡng và thương cảm thân xác Kiều dường như là hệ quả của một góc nhìn chăm chú vào thân phận con người nơi trần thế, thoát khỏi ánh sáng hư ảo của những vì sao chiếu mệnh loé lên từ thăm thẳm cõi trời - rờn rợn hư vô.
Trong góc nhìn mới ấy, Kiều không chỉ được giải phóng khỏi chữ Mệnh, giải phóng khỏi cảm hứng siêu hình để hiện diện như con người bằng xương bằng thịt, mang vẻ đẹp trần gian, mà còn được giải phóng khỏi thế giới suy tư già cỗi của đạo Nho để suy tính như một con người hiện thực, đau những nỗi đau trần thế. Ngay cả tiếng đàn của Kiều cũng được thế tục hoá. Nếu như trên đầu của Kiều trong các đoạn đời khác còn gợi nhiều điển tích, còn nặng nề ý tưởng, còn run rẩy những xúc cảm siêu hình, thì tiếng đàn của Kiều trong đoạn đời sống với Thúc Sinh lại gần gũi và trần thế. Nguyễn Du không hề dùng điển tích nào để tả tiếng đàn của Kiều trong lúc bị Hoạn Thư hành hạ. Tiếng đàn được tả rất súc tích để phơi bày cái hiệu quả tinh thần của nó:
Bốn dây như khúc nhạc than,
Khiến người trong cuộc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Thiên nhiên quanh Kiều cũng cụ thể biết bao, những bông lựu, hoa sen, hoa đào, lá ngô đồng, chưa bao giờ gần thế, tưởng như Kiều giơ tay ra là hái được. Ngay cả những đoá hoa trong không gian nhà Phật nơi Kiều tu hành cũng là những đoá hoa cụ thể và gần gũi, là vườn hoa "bốn mùa", là hoa cúng. Dù là hoa trong cõi Đạo, mọc cạnh Quan Âm các, nhưng nó không phải là thứ "hoa đào năm ngoái, còn cười gió đông" đầy tính chất tín hiệu, mà là hoa thật! Nó cố mở rộng cái kích tấc trần thế, cái kích tấc không gian vật chất của nó để tô điểm cho Kiều, làm thành một thảm hoa "bóng hoa đầy đất", đến nỗi Hoạn Thư muốn vào chùa cũng phải "rẽ hoa"! Trong cái thế giới thực tế và đôn hậu của Kiều và Thúc, từ sự việc, tiếng đàn và trăng gió, tất cả đều gần gũi và cụ thể. Gần gũi đến mức có thể "vén mây giữa trời", có thể thấy "tan sương đầu ngõ", có thể phân biệt rõ đáy nước long lanh và có thể vượt qua cái ranh giới cụ thể đầy hoa giữa đời và đạo để tìm tự do:
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Trong cái thế giới cụ thể thiết thực đó mọi thứ dường như có thể cân đong đo đếm được với những từ ngữ chỉ đơn vị và kích cỡ tràn ngập cả trong không gian, tuổi đời và nỗi nhớ.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
... Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời.
... Vành trăng ai xẻ làm đôi;
Nửa soi gối chiếc, nửa soi dặm trường.
... Trước cho bõ ghét những người,
Sau cho để một trận cười về sau.
... Tiểu thư nghe cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
... Sân bìm chút phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
Hạnh phúc "cỏn con", chia sẻ như "nửa" vầng trăng thôi, hạnh phúc ít ỏi có thể bấm đốt ngón tay mà đếm được, hạnh phúc cụ thể và rõ mồn một như những đồ vật có địa chỉ và kích cỡ trong không gian, đâu phải thứ hạnh phúc mơ hồ lãng mạn của chất thơ Kim Trọng, cũng không phải cái hạnh phúc tự do thăng hoa "cánh hồng bay bổng tuyệt vời" của Từ Hải kia! Đó là một hạnh phúc trần thế. Nhưng tác giả của thứ hạnh phúc lẽ mọn đời thường đó lại là người đầu tiên được Kiều mời đến để báo ân! Đó là một nghịch lý của tính dục và văn hoá.
Nếu như Thúc Sinh, với tấm lòng nhân hậu và tình yêu chiêm ngưỡng chân thực của mình đã nâng thể xác của Kiều - cái món hàng mà mình mua được dễ dàng - lên tầm cao của cái Đẹp, không tách cái Đẹp, cái Tài, cái trong trắng, cái lộng lẫy của Kiều ra khỏi tấm thân của một cô gái điếm, thì Hoạn Thư lại làm ngược lại, kéo tiếng đàn sà xuống cái thân phận con hầu thấp kém, kéo cái Đẹp, cái Tài tách khỏi cái thân xác tôi đòi để cái thân xác ấy không thể thăng hoa, bay bổng trong tình yêu của Thúc nữa, mà biểu hiện nguyên hình trong tính vật chất tầm thấp hèn lệ thuộc của nó. Nếu như Thúc Sinh đã nâng cái đời thường thảm bại của Kiều từ tấm thân gái điếm tầm thường đến số phận lẽ bất hợp pháp lên tầm văn hoá, tầm của cái đẹp, thì Hoạn Thư đã dùng chính tiếng đàn để giải văn hoá, giải Đẹp hình tượng nàng Kiều. Với người phụ nữ, còn gì hạnh phúc hơn khi tất cả cuộc sống trần gian của mình được thăng hoa thành cái đẹp trong cái nhìn chiêm ngưỡng của tình yêu, còn gì đau đớn hơn khi bị bứt khỏi hào quang văn hoá để hiện ra loã lồ trong cái thân phận hèn kém nhục nhằn của một con điếm. Có lẽ chính vì thế mà Thúc Sinh trở thành kẻ ân nhân sâu nặng nhất và Hoạn Thư trở thành chính danh thủ phạm. Từ cuộc chơi siêu hình dưới bàn tay đạo diễn của cái Mệnh đến cuộc chơi văn hoá ú tim giữa thân phận và cái Đẹp, số phận Kiều đã được nhà thơ soi rọi từ hai phía để trở nên lập thể, thăng hoa.
Thúc Sinh là một thương gia hào phóng, "quen thói bốc rời, trăm ngàn đổ một trận cười như không". Thúc không phải một người nông dân tằn tiện chi li, cũng không có cái chất "quỷ quái nông dân", nhưng Thúc mang đến một hạnh phúc thiết thực cho Kiều, đáp ứng cái nhu cầu thiết thực của một con người bất hạnh, cụ thể là Kiều và con người phụ nữ nói chung trong Kiều. Khi Kiều đang chơi vơi lạc lối trong cõi siêu hình của chữ Mệnh, với ám ảnh Đạm Tiên như gánh nặng của tâm tư, thì cái hạnh phúc lẽ mọn thiết thực của Thúc là một bến bờ cụ thể cho tâm hồn Kiều neo đậu, để rũ khỏi những stress siêu hình.
Thúc Sinh vô hình là thầy phù thuỷ hoá giải Đạm Tiên. Không thấy bóng dáng Đạm Tiên lẩn quất đe doạ trong thế giới của Thúc Sinh ngay cả khi Hoạn Thư đại diện cho trật tự phong kiến nơi sản sinh ra chữ Mệnh và những Đạm Tiên đối diện trước Kiều tác oai tác quái.
Về phương diện tình cảm thì Thúc lệ thuộc Hoạn Thư, nhưng về phương diện văn hoá thì Hoạn Thư bất lực trước cái phóng túng hào hoa và cởi mở của Thúc. Thúc có một cái nhìn mới rất đáng sợ cho họ Hoạn, cái nhìn của một nền văn hoá mới vượt trào khỏi những khuôn thước phong kiến mà Hoạn Thư là đại diện - cái nhìn đó cho phép Thúc thấy tấm thân của một cô gái điếm thật trong trắng, thiêng liêng, như sản phẩm tuyệt mỹ của thiên nhiên nơi cái Đẹp đã lấn lướt cái đạo đức, thoát khỏi số phận bị cái đạo đức thôn tính, đồng hoá như trong cái nhìn phong kiến.
Cái ghen của Hoạn Thư là một quyền uy văn hoá hơn là một quyền uy gia đình. Hoạn Thư đối xử với Kiều bằng cách hoá giải cái đẹp của Kiều như đã phân tích ở trên, dùng lý trí kiềm chế những bản năng thế tục để nâng mình lên cõi đẹp kéo Kiều xuống cõi đời. Chọn một phương thức đánh ghen như vậy, Hoạn Thư đã chứng tỏ một trình độ thẩm mỹ tinh tế đủ để biết run sợ trước tiếng đàn, câu thơ của Kiều.
Nếu ghen thuần tuý như những người đàn bà khác, Hoạn Thư sẵn sàng cho bọn Khuyển Ưng thủ tiêu hay rạch mặt Kiều, để Kiều không còn nguyên vẹn cái "toà thiên nhiên" từng hấp dẫn Thúc Sinh. Nhưng Hoạn Thư đã không làm vậy. Phải chăng, Hoạn Thư hiểu rằng cái hấp dẫn Thúc không phải là chính tấm thân kia, nếu Kiều có chết đi hay xấu xí đi thì hình ảnh văn hoá của Kiều vẫn sẽ ám ảnh Thúc. Vì vậy, Hoạn Thư phải hạ bệ cái hình ảnh văn hoá đó mà thủ đoạn chính của Hoạn Thư là tước đi mọi tự do trong mọi hành vi văn hoá của Kiều.
Cái nhục, cái đau của Kiều là ở chỗ đã đem tiếng đàn của mình phục vụ tình địch trước mặt Thúc Sinh, đã đem cái tài của mình ra làm công cụ nô lệ trong đời sống. Cái đẹp bị tước đi tự do trở nên mất quyền uy. Người ta chẳng có thể tả nhiều về nó. Tiếng đàn trước kia còn gợi lên cánh hạc bay, giọt mưa rơi, cơn gió thoảng, gợi lên cả lịch sử và kinh sách. Tiếng đàn của Kiều trước Hoạn Thư và Thúc Sinh chỉ còn là tiếng khóc than, đơn điệu, cũ mòn, trần thế như tiếng đàn của người hát xẩm khơi gợi tình thương. Nguyễn Du chỉ tả tiếng đàn ấy bằng mấy câu vắn tắt:
Bốn dây như tiếng khóc than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Tiếng đàn đã mất đi hào quang của cái Đẹp, không còn đôi cánh tự do để bay lượn trong thế giới riêng của cái Đẹp, của văn hoá, của tình yêu, mà trở thành tù binh của cõi đời, thành vũ khí chĩa thẳng vào chàng Thúc! Hoạn Thư "diễn biến hoà bình" thật tài ba. Đó là đòn văn hoá đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam. Bình luận về đòn đánh ghen ác hiểm này, Kiều tự thú:
Chước đâu rẽ thuý chia uyên,
Ai ra đường ấy, ai nhìn được ai.
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc, nặng như chì
Gỡ cho ra nợ, còn gì là duyên.
Rõ ràng, hiệu quả của màn kịch đánh ghen này là lôi Kiều trở về môi trường văn hoá nơi Kiều mang mặc cảm về địa vị, về chữ Trinh, về thân phận. Không phải ngẫu nhiên cái ám ảnh về định mệnh vắng bặt lâu nay trong thế giới của Thúc, giờ lại ào vào trong tâm tưởng Kiều:
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể dâu sóng cả có tuyền được vay?
Hơn thế nữa, Thúc Sinh là kẻ từng bốc đồng coi khinh mọi khó khăn:
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trăm đường hãy cứ trông vào một ta.
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều.
Giờ đây, lại trở thành phát ngôn viên của chữ Mệnh:
Sinh rằng: "Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay.
Nghìn xưa, âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Đến lúc này thì cục diện đã rõ: Cả Kiều và Thúc đều bị nhấn chìm trong môi trường văn hoá phong kiến nơi Hoạn Thư có ưu thế chủ nhân không còn cái tư thế tự do, phóng túng phá rào của văn hoá mới mà tấm lòng thương gia đã chớm bộc lộ. Họ đã đầu hàng về văn hoá, đó là sự thắng lợi tuyệt đối của Hoạn Thư.
Không có sự thắng lợi nào lớn hơn sự thắng lợi của kẻ đã chiếm lĩnh được đối phương bằng văn hoá. Truyền cho nó một tâm thức văn hoá, khiến cho tự thân nó là thấp kém trong quan hệ với mình, trở thành nô lệ về văn hoá, quay lưng lại với những giá trị văn hoá vốn có của mình thấy đó là tai hoạ, là vực thẳm "Bây giờ một vực, một trời" là như thế!
Bản chất ngón võ của Hoạn Thư là đánh vào mặc cảm nô lệ của Kiều và Thúc để họ tự nguyện từ bỏ những giá trị đe doạ hạnh phúc của Hoạn Thư. Hoạn Thư đã thắng bằng một chiến dịch phản văn hoá rất ngoạn mục. Kiều đã phải lệ thuộc, đã phải cầu xin. Chính cái thất bại về văn hoá đó đã khiến Hoạn Thư trở thành "chính danh thủ phạm". Tội của Hoạn Thư là đã chống lại quá trình giải sex của Kiều, biến hình ảnh con điếm thành hình ảnh văn hoá, thành con điếm văn nô, điều mà Kiều luôn nỗ lực chống lại kể cả bằng cách vô hiệu hoá con người tính dục của chàng Kim.
Chẳng thế mà, khi giữa thanh thiên bạch nhật trước ba quân, chính danh thủ phạm Hoạn Thư công khai đầu hàng về văn hoá, đánh tráo mâu thuẫn văn hoá thành mâu thuẫn tình dục "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", chính thức thừa nhận quyền uy văn hoá của Kiều, xin được khoan dung, thì Kiều bị đẩy vào bài toán văn hoá nan giải:
Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen.
Và ta đã thấy Kiều chọn con đường tha bổng cho "chính danh thủ phạm" để hành hình bọn tay chân Khuyển Ưng, Khuyển Phệ... thịt nát xương rơi. Kể cũng lạ, nhưng đó là logic ứng xử văn hoá của Kiều, cốt lõi văn hoá đó là khát vọng giải sex.
..................................
(*): Trích đăng một chương trong cuốn sách "HỒN VIỆT TRONG TRUYỆN KIỀU" của Đỗ Minh Tuấn sắp xuất bản
0 nhận xét Blogger 0 Facebook
Post a Comment