Sàn mới - Bấm vào đây
Kiếm tiền toàn tập, Bấm vào đây
Từ nhu cầu học tập để nâng cao tri thức, tăng cường năng lực chuyên môn, khả năng lãnh đạo và quản lý, từ nhiều năm trước, một số hình thức đào tạo phù hợp với điều kiện của người học đã được ngành giáo dục - đào tạo mở ra, góp phần quan trọng vào sự phát triển xã hội và con người. Tuy nhiên, đáng tiếc là từ đó lại xuất hiện hiện tượng nhiều người đi học vì các nhu cầu nằm ngoài nhu cầu tiếp thu tri thức...
Khi hệ thống đào tạo đại học, sau đại học, chưa có khả năng đáp ứng nhu cầu học tập của toàn bộ xã hội, ngành giáo dục - đào tạo đã triển khai các hình thức đào tạo như tại chức, liên thông, liên kết. Từ động cơ lành mạnh và nỗ lực của người học, từ nhiệt tình của giảng viên,... mà nhiều khó khăn của các hình thức đào tạo này được khắc phục, từ đó đất nước được bổ sung thêm nhiều cán bộ, chuyên gia, nhà lãnh đạo có uy tín. Sự ghi nhận của giới chuyên môn, sự phát triển của cơ quan do những cá nhân được đào tạo từ nguồn này lãnh đạo,... là bằng chứng cho thấy giá trị, hiệu quả thiết thực của các hình thức đào tạo ngoài chính quy. Tuy nhiên gần đây, khi có địa phương ưu tiên điểm cho sinh viên tốt nghiệp hệ chính quy trong tuyển dụng công chức, viên chức và việc các địa phương như TP Hà Nội, TP Ðà Nẵng, các tỉnh Nam Ðịnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Thái Nguyên,... "nói không" với những người tốt nghiệp hệ tại chức, liên thông, liên kết đã đặt ra câu hỏi về các hình thức đào tạo kể trên. Ðiều này còn khiến cho một số công chức, viên chức có bằng tại chức không yên tâm, họ tiếp tục xin học thêm một bằng chính quy theo đường xét tuyển không phải thi, hoặc học cao học liên kết với nước ngoài để tránh thi đầu vào. Tình trạng cán bộ, viên chức đi học nhiều đến mức một vị lãnh đạo ở tỉnh nọ phải lên tiếng trong phiên họp Hội đồng nhân dân tỉnh rằng, cán bộ đi học rỗng cả cơ quan nhưng chất lượng công việc vẫn không tốt hơn; có nhà khoa học thì nhận xét, người đông nhưng không mấy người thật sự say mê khoa học, chỉ cốt lấy cái bằng. Chưa nói, có địa phương đề ra chủ trương "tiến sĩ hóa" đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, "thạc sĩ hóa" đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp huyện, khiến chủ tịch phường cũng nộp hồ sơ xin đi học cao học. Không hiểu ở cấp phường cần phải nghiên cứu gì, và đi học có phải từ yêu cầu công việc hay đam mê khoa học, mà vì mục đích khác?
Có thể liệt kê mấy cách thức "xóa bằng tại chức", đó là: người tốt nghiệp đại học tại chức phải tìm mọi cách học lên cao học để có bằng chính quy cao hơn; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng tại chức nếu học liên kết lên đại học hai hay ba năm cũng được cấp bằng đại học chính quy. Con đường từ tại chức tới chính quy, từ cao đẳng lên đại học không phải thi tuyển quá dễ dàng, nên một số trường đại học thích đào tạo liên thông. Bên cạnh đó, do khó tìm việc làm, không ít sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy tiếp tục học cao học. Việc này thường được các phụ huynh cân nhắc kỹ lưỡng: đằng nào con mình cũng phải học cao hơn, vậy thì vay mượn, vun vén cho con học luôn một lần, vừa có bằng cấp "oách", vừa để sau này xin việc đỡ tốn kém. Ðiển hình "thừa thầy thiếu thợ" có thể dẫn ra một thí dụ: hơn 700 công nhân lắp ráp thủ công là "ông cử, bà cử" ở Công ty Ðiện tử Foster Ðà Nẵng. Ðây thật sự là con số đáng lo ngại nếu, cứ lấy tấm bằng đại học làm thước đo tay nghề. Cũng vì cuộc chạy đua bằng cấp, cho nên mới có chuyện học cử nhân một ngành, sau lại học cao học một ngành khác, rồi làm nghiên cứu sinh một chuyên ngành lại không liên quan gì đến hai ngành kia. Rồi không khó tìm những trường hợp trái khoáy như tốt nghiệp đại học sư phạm văn nay đi ngang làm thạc sĩ quản trị kinh doanh, hay nghiên cứu sinh chuyên ngành hành chính công,... kết quả là không chuyên môn nào ra chuyên môn nào, không biết rồi đây việc nghiên cứu, giảng dạy của họ sẽ đi tới đâu. Chưa nói tới tình trạng có người không biết sử dụng ngoại ngữ mà chính họ đã có chứng chỉ ngoại ngữ đó với trình độ khá cao, hoặc có bằng về tin học nhưng lại rất lúng túng khi ngồi trước máy tính!
Ðiều người dân mong mỏi ở cán bộ, công chức trước hết không phải là bằng cấp mà là sự sáng suốt, quyết đoán, tận tâm với công việc, thông thạo nghiệp vụ, "dĩ công vi thượng", thật sự vì dân. Với các nhà chuyên môn, như nghề y chẳng hạn, uy tín của thầy thuốc trước hết phụ thuộc vào khả năng chẩn đoán và điều trị, không nhất thiết là thạc sĩ hay tiến sĩ. Nhưng không ít người lại có quan niệm một bằng đại học chưa đủ, mà phải có vài ba bằng đại học, phải học trên đại học mới có cơ hội tiến thân. Ngoài ra phải nói đến thói háo danh, kiêu ngạo về bằng cấp như người xưa tổng kết "chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng"! Trong khi đó, trên thực tế, rất nhiều người là thợ giỏi, là chuyên gia trên một lĩnh vực nào đó, nhưng chưa có môi trường thuận lợi để phát huy tài năng, đóng góp cho xã hội. Có học có hơn là điều ai cũng biết nhưng ngày nay, để "có học có hơn" thì phải trả lời câu hỏi học như thế nào, học để làm gì, tri thức tiếp thu được có tương ứng với bằng cấp hay không. Còn học nghề này lại làm nghề khác, học không biết hành, học chỉ cốt làm "đẹp" hồ sơ xin việc,... lại là lãng phí rất lớn với xã hội cũng như với mỗi gia đình. Cách thức đi học, mục đích đi học của người làm việc trong các cơ quan, đoàn thể, xét đến cùng là xuất phát từ việc sử dụng cán bộ, công chức của cơ quan, công sở. Nhiều cơ quan tạo điều kiện cho cán bộ đi học mà không đặt ra yêu cầu sử dụng chuyên môn thế nào sau khi tốt nghiệp, cách làm này gây lãng phí rất nhiều nguồn lực. Nhấn mạnh bằng cấp tại các cơ quan và đơn vị hoạt động có tính chuyên sâu, tại các nhà trường và cơ sở nghiên cứu khoa học, tại cơ quan quản lý ở T.Ư,... thì còn có lý, song cơ quan hành chính thuần túy, thậm chí đoàn thể chính trị - xã hội cũng ưu tiên đề bạt người có bằng cấp cao hơn (khi trong thực tế công việc, họ chưa thể hiện được năng lực chuyên môn của bằng cấp họ đã có) thì cũng là một nguyên nhân đẩy tới nhu cầu "đi học".
Ở nước ta, chất lượng đào tạo là rất khó đánh giá nếu chỉ dựa trên đề tài luận văn, luận án. Tính hữu dụng, tính khả thi của đề tài chỉ có thể xác định được khi nó được đặt trong môi trường chuyên ngành của nó. Nói cách khác, hoạt động nghiên cứu khoa học phải gắn với đầu tư, và có thị trường tiêu thụ sản phẩm nghiên cứu. Ở các nước phát triển, luận văn, luận án, công trình nghiên cứu đều gắn với các khoản tài trợ, sản phẩm nghiên cứu được kiểm nghiệm bởi thị trường, chứ không chỉ qua hội đồng khoa học trong nhà trường. Quản lý khoa học ở nước ta chưa bảo đảm tính ứng dụng, do đó thường thiên về lý thuyết suông, nhất là các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Một cán bộ ở Bộ Giáo dục - Ðào tạo từng bày tỏ nỗi e ngại với cách "nêu vấn đề, thực trạng, giải pháp" trong nhiều luận án, luận văn vì thiếu ý nghĩa thực tiễn, không thể vận hành trong cuộc sống. Nhiều cơ quan, doanh nghiệp phàn nàn là phải đào tạo lại sinh viên đã tốt nghiệp và cả cấp học cao hơn, vì không đáp ứng được yêu cầu công việc. Và ở đây, câu chuyện "cung" quyết định "cầu" vẫn là một yếu tố quyết định, bởi chúng ta sử dụng con người như thế nào thì dịch vụ giáo dục - đào tạo sẽ đáp ứng yêu cầu như thế. Nếu xã hội chỉ cần một vị tiến sĩ trình ra cái bằng là đủ, thì ngành giáo dục - đào tạo vẫn sẽ tiếp tục cung cấp các sản phẩm này.
Ðể cải cách công vụ và phát triển đội ngũ công chức, có lẽ các cơ quan Nhà nước nên tham khảo cách làm của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có các tiêu chí tuyển chọn lao động riêng, nhưng yêu cầu chung là phải có tác phong công nghiệp, trung thực, chăm chỉ và sáng tạo. Vị trí công việc không bao giờ vĩnh viễn mà có thể thay đổi, căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh và luôn có cạnh tranh trong từng vị trí. Như ở Công ty Kyoei Dietech của Nhật Bản tại Khu công nghiệp Thăng Long (Hà Nội) chẳng hạn. Công ty này ưu tiên các phẩm chất trung thành, tự lập, có kỹ năng quản lý, chú ý đào tạo để giúp người Việt Nam có thể từng bước thay thế quản lý người Nhật Bản, kể cả cấp cao nhất, như chức giám đốc. Ở đây, mỗi vị trí chủ chốt bao giờ cũng có ít nhất hai nhân sự để cạnh tranh. Tiêu chuẩn chọn người quản lý là ưu tiên người từng học tập ở Nhật, có phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả. Vừa qua, công ty này quyết định đưa một số quản lý người Việt sang Nhật Bản đào tạo để tiếp quản vị trí tổng giám đốc, phó tổng giám đốc vốn vẫn do người Nhật Bản nắm giữ. Do đó trong các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp của nước ngoài, rất hiếm người đi học lên thạc sĩ, tiến sĩ. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Nhà nước không thiếu người có học vị, song hiệu quả sản xuất, kinh doanh vẫn thua kém so với các doanh nghiệp FDI.
Dân chủ hóa, công khai hóa việc tuyển dụng, sử dụng và đề bạt cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, các doanh nghiệp Nhà nước, cần lấy chất lượng công việc, kết quả làm việc, uy tín trước tập thể,... làm các tiêu chí cơ bản đầu tiên; từ đó vừa khuyến khích cá nhân có năng lực phù hợp với bằng cấp, vừa tạo cơ hội để các thành viên có tay nghề cao phát huy khả năng của họ và được đãi ngộ tương xứng. Nếu mỗi cơ quan, doanh nghiệp cần căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của công việc, để cử cán bộ đi học cho phù hợp và có hiệu quả, thì ngành giáo dục - đào tạo cũng cần sớm nghiên cứu, bổ sung tri thức mới đáp ứng được đòi hỏi của cơ quan, doanh nghiệp và xã hội vào nội dung, chương trình giảng dạy. Dù thế nào thì sản phẩm của giáo dục - đào tạo phải là con người có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu của từng ngành nghề, từng lĩnh vực cụ thể. Do đó, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị T.Ư 8 (khóa XI) cần nhấn mạnh đổi mới tư duy quản lý, nhận thức về giáo dục cần đặt trong bối cảnh mới của đất nước, từ đó đổi mới cách thức đào tạo, tuyển dụng và sử dụng, để hình thành nên các thế hệ người Việt Nam có năng lực chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng các đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
ANH KHÔI - Nhân Dân
-*-*-*
Câu chuyện giáo dục: Những câu chuyện có thật về giáo dục đương đại. Bạn có câu chuyện về giáo dục, hãy gửi tới: gockhuatgiaoduc@gmail.com Nếu copy sang trang khác, vui lòng ghi rõ nguồn bài viết hoặc gắn link bài viết.
Sàn mới - Bấm vào đây
0 nhận xét Blogger 0 Facebook
Post a Comment