Sàn mới - Bấm vào đây
Kiếm tiền toàn tập, Bấm vào đây
Ý người Pháp là muốn dần dần dùng vũ lực đàn áp Việt Minh để lập lại chủ nghĩa thuộc địa như trước. Việt Minh cũng biết rõ như thế, nhưng chỉ có hai con đường: một là chịu lép một bề, để cho người Pháp điều khiển, như thế lại trái với chủ nghĩa của họ mà dân chúng sẽ không ai theo nữa, tất là rồi cũng đến chỗ tiêu diệt.
Việc khó khăn lúc bấy giờ là việc đối phó
với nước Pháp, mà tôi cho là cách ngoại giao của chính phủ có nhiều chỗ hớ
hênh. Lúc đầu mới có lâm thời chính phủ, có người phái viên Mỹ đến bảo ông Bảo
Ðại rằng: "Chính phủ Việt Nam có cần tiền để kiến thiết thì người Mỹ sẵn
sàng cho vay". Ông liền đến bảo ông bộ trưởng tài chính thì ông ấy chối
phắt đi, nói rằng: "Chính phủ Việt Nam không cần tiền người Mỹ".
Trước khi nước Pháp đem quân
vào bắc bộ, chính phủ Pháp mở cuộc điều đình với chính phủ Trung Hoa ở Trùng
Khánh để nước Tàu rút hết quân về và để nước Pháp thu lại chính quyền. Lúc ấy
người ta nói rằng chính phủ Trung Hoa có điện sang cho chính phủ Việt Minh cho
đại biểu sang dự thính trong khi đàm phán. Chính phủ Việt Minh làm thinh không
trả lời.
Khi chính phủ Pháp ký kết
hiệp ước với chính phủ Trung Hoa rồi, mới trù tính đem quân ra bắc bộ, Cao cấp
ủy viên nước Pháp lúc bấy giờ là hải quân trung tướng D'Argenlieu có ra vịnh Hạ
Long mời ông Hồ Chí Minh xuống nói chuyện. Ông đi với ông Nguyễn Tường Tam, bộ
trưởng bộ ngoại giao và mấy người khác nữa. Xuống đến tàu, chỉ có mình ông Hồ
được mời vào buồng nói chuyện, còn mọi người đứng ở ngoài. Xong việc nói chuyện
với chiếc tàu chiến rồi, cao cấp ủy viên ông Sainteny thay mặt để lên Hà Nội
cùng với ông Hồ Chí Minh và Vũ Hồng Khanh, đại biểu chính phủ Việt Nam ký tờ
hòa ước ngày mùng 6 tháng ba năm 1946. Bản hiệp ước sơ bộ có ba khoản:
Khoản thứ nhất: "Chính
phủ nước Pháp nhận nước Việt Nam Cộng Hòa là một nước tự do có chính phủ có
quốc hội, có quân đội và có tài chính, dự vào liên bang Ðông Dương và Liên Hiệp
Pháp. Về việc hợp nhất ba kỳ thì chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận sự quyết
định của dân chúng sau cuộc trưng cầu ý kiến".
Khoản thứ hai: "Chính
phủ Việt Nam phải lấy tình thân thiện mà đón tiếp quân đội Pháp chiếu theo
những thỏa hiệp quốc tế, vào thay những quân Pháp đã đóng trong nước. Có bản
phụ ước đính theo hiệp ước này định rõ cái thể cách về việc luân chuyển quân
đội ấy".
Khoản thứ ba: "Sau khi
hai bên đã ký tên rồi, thì phải thi hành ngay những điều đã định trong tờ hiệp
ước này và mỗi bên phải tìm các phương tiện để đình hết thảy cuộc xung đột ở
các nơi, quân đội hai bên ở đâu cứ đóng ở đấy, và phải gây ra một không khí hòa
hảo để mở cuộc thương thuyết theo tình thân thiện và chân thật. Cuộc thương
thuyết ấy sẽ bàn về:
a. Việc ngoại giao của nước Việt Nam với các
nước ngoại quốc
b. Quyền pháp tương lai của Ðông Dương
c. Những quyền lợi kinh tế và văn hóa của
Pháp ở Việt Nam. Về mặt quân sự thì có bản phụ ước sau này, cùng ký một ngày
với bản hiệp ước sơ bộ vừa nói trên:
1. Quân đội thay thế quân đội Trung Hoa (tức
là từ vĩ tuyến 16 trở ra) gồm có:
a. 10.000 quân Việt Nam có sĩ quan Việt Nam
chỉ huy, để tùy tư lệnh Pháp sử dụng, nhưng vẫn thuộc quyền chính phủ Việt Nam.
b. 15.000 quân Pháp, kể cả quân Pháp hiện
đang đóng trong xứ từ phía bắc vĩ tuyến 16 trở ra. Quân đội ấy quê quán ở nước
Pháp, trừ quân sang canh giữ tù binh Nhật Bản không kể.
c. Hết thảy những quân đội ấy thuộc dưới
quyền chỉ huy của Pháp, có đại biểu Việt Nam tham dự, sự đóng trại và cách dùng
những quân đội ấy sẽ định sau, khi quân Pháp đã đổ bộ, ở hội đồng của Tham mưu
bộ Pháp và Việt. Các ủy ban Pháp và Việt sẽ đặt trong các giai cấp để giữ cái
tinh thần về sự hợp tác thân thiện trong sự liên lạc giữa quân Pháp và Việt.
2. Những toán quân đội của Pháp đi lại luân
chuyển chia làm ba hạng:
a. Những toán quân canh giữ tù binh Nhật Bản.
Những toán quân ấy hạn không quá sáu tháng sẽ rút về, khi tù binh đã đem đi
hết.
b. Những toán quân có phận sự phải hợp tác
với quân Việt Nam để giữ trật tự và an ninh trong lãnh thổ Việt Nam. Hạng quân
này cứ mỗi năm triệt hồi 1% (một phần trăm) và thay bằng quân Việt Nam, hạn
trong năm năm không còn quân Pháp thuộc hạng này đóng tại Việt Nam nữa.
c. Những toán quân phải giữ những nơi căn cứ
ở Việt Nam thì đóng ở đấy, chỗ đồn trại phải định giới hạn rõ ràng.
3. Chính phủ Pháp cam đoan không dùng lính
Nhật Bản về việc binh bị.
Ký tên: Sainteny-Salan, Võ
Nguyên Giáp.
Ðó là những Hiệp ước ký ngày
mùng 6 tháng ba năm 1946 của chính phủ Việt Minh do ông Hồ Chí Minh làm chủ
tịch đã thỏa thuận với Pháp. Lúc bấy giờ người Pháp gọi nước Việt Nam là kể từ
trung bộ trở ra mà thôi, còn đất Nam Bộ thì phải đợi khi nào trưng cầu dân ý
rồi mới định được.
Xem những bản Hiệp ước, thì
chẳng thấy đâu là thống nhất và đâu là hoàn toàn độc lập như Việt Minh đã tuyên
truyền rầm rĩ từ lúc đầu.
Tại sao chính phủ Việt Minh
lại chịu ký những tờ Hiệp ước ấy? Ðó là câu hỏi ở đầu lưỡi mọi người. Việt Minh
tự biết chưa có đủ thế lực chống với Pháp, và quân Tàu đến đóng từ vĩ tuyến 16
trở ra, ở trong lại có Quốc dân đảng nhờ quân Tàu binh vực, hoạt động rất mạnh.
Họ nghĩ hãy ký với nước Pháp để tạm yên, rồi chờ quân Tàu rút xong, sẽ trừ hết
Quốc dân đảng, thống nhất hết thảy các lực lượng, lúc ấy sẽ xoay sang với quân
Pháp. Vả lại lúc ấy Việt Minh còn có cái hy vọng là đảng cộng sản Pháp sẽ thắng
lợi trong cuộc tuyển cử bên Pháp. Hễ bên Pháp mà đảng cộng sản lên cầm quyền,
thì công việc bên Việt Nam sẽ giải quyết dễ dàng mau chóng hơn.
Sau Hiệp ước sơ bộ ngày mùng
6 tháng ba, khi quân Pháp đã vào bắc bộ và trung bộ rồi, còn có hội đồng bộ
tham mưu ngày mùng 3 tháng tư năm 1946, định các chi tiết về những điều đã nói
ở bản phụ ước.
Bên người Pháp thì cái kế
hoạch là muốn từ từ, trước hết cắt đứt Nam Bộ ra ngoài nước Việt Nam. Vậy nên
vừa ký bản Hiệp ước sơ bộ ngày mùng 6 tháng 3 thì đến ngày 26 tháng ba đã họp
tư vấn hội nghị có độ mười người, gồm cả Pháp và Việt để lập ra Nam Kỳ Cộng Hòa
Quốc và cử đại tá Nguyễn Văn Xuân làm phó chủ tịch.
Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm
được mấy tháng, thấy người Pháp không cho mình được quyền tự chủ và lại bị
người trong nước thóa mạ, mới thất vọng tự tử. Người Pháp lại đem y sĩ Lê Văn
Hoạch lên thay, đại tá Nguyễn Văn Xuân bỏ sang Pháp, rồi được thăng chức lục
quân thiếu tướng.
Hiệp ước mùng 6 tháng ba chỉ
là một Hiệp ước sơ bộ mà thôi, tất phải có một hội nghị chính thức giữa nước
Pháp và Việt để định rõ cái địa vị của hai nước liên lạc với nhau. Nhưng trước
khi đi đến hội nghị chính thức ấy, người Pháp mở một hội nghị dự bị ở Ðà Lạt để
đại biểu hai bên gặp nhau và biết quan điểm của nhau. Vậy khởi đầu ngày 17
tháng tư đến ngày 12 tháng năm năm 1946, đại biểu hai bên họp ở Ðà Lạt. Song vì
quan điểm mỗi bên một khác thành ra hội nghị đó không có kết quả gì cả.
Tuy hội nghị Ðà Lạt không có
kết quả nhưng cũng làm người ta biết rõ thái độ và quan điểm của hai bên. Hai
bên định tháng bảy năm ấy sẽ họp hội nghị chính thức ở Fontaineblou bên Pháp để
giải quyết cho xong vấn đề Pháp Việt. Ðó là cái tình thế gay go giữa nước Pháp
và Việt Nam, sau sáu tháng chính phủ Việt Minh lên cầm quyền.
Dân tình trong nước đối với
chính phủ Việt Minh sau khi ký bản hiệp ước ngày mùng 6 tháng ba và sự thất bại
ở Ðà Lạt, ai nấy đều chán nản và lại thấy việc chính trị rối beng, không có
trật tự gì cả, thành ra người ta lại tức giận thêm.
Lúc ấy cái nếp cai trị cũ đã
bỏ hết, ở các nơi đều có Nhân dân Ủy ban làm việc. Những ủy viên trong những ủy
ban ấy phần nhiều là những người vô học, thường là thợ thuyền hay phu phen,
được khi có quyền trong tay làm điều tàn ngược, bắt người lấy của, giết hại
những người không theo đảng họ, hay vì tư thù hờn oán mà chém giết một cách tàn
nhẫn. Ai có dị nghị điều gì, thì cho là phản động, là Việt gian, bị bắt bớ,
đánh đập tàn nhẫn, đâu đâu cũng náo động cả lên. Ai cũng tự hỏi rằng: nếu như
thế này mãi, thì nhân dân sống làm saỏ Vậy nên mọi người đều mong có sự thay
đổi để những người đứng đắn ra làm việc cho dân đỡ khổ. Song trong cái hoàn
cảnh ấy người đứng đắn ra làm việc sao được. Ông Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ trưởng
bộ nội vụ cũng phải khoanh tay ngồi nhìn, ông Bùi Bằng Ðoàn làm thanh tra chính
trị, sang Gia Lâm khám xét việc gì bị ủy ban nhân dân bắt, chính phủ phải phái
binh lính sang mới được tha về. Thành thử lúc ấy ngoài những người cộng sản ra,
không ai làm gì được.
Một đàng dân ta oán Việt
Minh, một đàng sau Hiệp ước sơ bộ ký với chính phủ Việt Minh, quân Pháp vào
đóng ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Ðịnh v...v... cái thái độ của quân Pháp lúc ấy,
nhất là ở Hà Nội và Hải Phòng tung hoành bạo ngược, rõ rệt là có ý khiêu khích,
làm cho ai cũng uất ức tức giận.
Ý người Pháp là muốn dần dần
dùng vũ lực đàn áp Việt Minh để lập lại chủ nghĩa thuộc địa như trước. Việt
Minh cũng biết rõ như thế, nhưng chỉ có hai con đường: một là chịu lép một bề,
để cho người Pháp điều khiển, như thế lại trái với chủ nghĩa của họ mà dân
chúng sẽ không ai theo nữa, tất là rồi cũng đến chỗ tiêu diệt. Hai là tìm cách
phòng bị để chống với Pháp, trước là hợp với cái lòng ái quốc của dân chúng, dù
cái mục đích cốt yếu của họ không phải là vì quốc gia, nhưng họ phải lợi dụng
hai chữ quốc gia để chống với quân địch mà đứng vào cái địa vị tranh đấu cho
nền độc lập nước nhà. Lẽ tất nhiên là họ phải đi vào con đường thứ hai. Bởi
vậy, việc điều đình cứ điều đình, việc chiến đấu cứ tiến hành dự bị.
Sàn mới - Bấm vào đây
0 nhận xét Blogger 0 Facebook
Post a Comment